Tìm kiếm Blog này

Trưởng Nguyễn 's Blog

Nơi hội tụ đam mê, chia sẽ thành công, cùng nhau tỏa sáng. Mục tiêu: xây dựng cộng đồng hướng dẫn trẻ tài năng và gắn bó.

Trưởng Nguyễn 's Blog

Nơi hội tụ đam mê, chia sẽ thành công, cùng nhau tỏa sáng. Mục tiêu: xây dựng cộng đồng hướng dẫn trẻ tài năng và gắn bó.

Trưởng Nguyễn 's Blog

Nơi hội tụ đam mê, chia sẽ thành công, cùng nhau tỏa sáng. Mục tiêu: xây dựng cộng đồng hướng dẫn trẻ tài năng và gắn bó.

Trưởng Nguyễn 's Blog

Nơi hội tụ đam mê, chia sẽ thành công, cùng nhau tỏa sáng. Mục tiêu: xây dựng cộng đồng hướng dẫn trẻ tài năng và gắn bó.

Trưởng Nguyễn 's Blog

Nơi hội tụ đam mê, chia sẽ thành công, cùng nhau tỏa sáng. Mục tiêu: xây dựng cộng đồng hướng dẫn trẻ tài năng và gắn bó.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024

Du lịch Nhật Bản | Bảo tàng rượu Sake - ăn Beef Steak tại Kobe | Ta Lang Thang

Có lẽ Nhật Bản - một quốc gia đã xây dựng được danh tiếng cho mình trên bản đồ du lịch thế giới bởi vẻ đẹp tựa như trong phim bước ra. Và nếu có ý định đến “xứ sở hoa anh đào” khám phá thì địa điểm bạn nên thử là khám phá nhịp sống tại các thành phố lớn của quốc gia này để xem bí kíp thành công của họ là gì nhé.

Người Nhật Bản có câu nói “đi học ở Kyoto, làm việc ở Osaka và sống ở Kobe”, bấy nhiêu đó cũng đủ để thấy sức hấp dẫn của thành phố Kobe xinh đẹp. Đến với Kobe, du khách sẽ được đắm chìm trong sự giao thoa độc đáo của văn hoá Đông – Tây, thưởng thức loại thịt bò hảo hạng nhất thế giới. Nơi đây chính là toạ độ lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá, ẩm thực và mua sắm.

Cùng Trưởng Nguyễn tìm hiểu về thành phố cảng Kobe và những trải nghiệm thú vị chỉ có tại vùng đất này nhé.

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

THỐNG KÊ CÁC ĐIỀU LÝ THÚ VỀ VUA-CHÚA VIỆT NAM

THỐNG KÊ CÁC ĐIỀU LÝ THÚ VỀ VUA-CHÚA VIỆT NAM


Nếu không tính Hùng Vương là thời kỳ huyền sử còn nhiều nghi vấn, có thể đưa ra các thống kê về vua Việt Nam và các triều đại Việt Nam như sau (không tính các thời Bắc thuộc):

1- VỀ CÁC VUA
a)- Hoàng đế đầu tiên:
- Lý Nam Đế (544 - 548) với niên hiệu đầu tiên là Thiên Đức là người xưng đế đầu tiên trong giai đoạn Bắc thuộc.
- Đinh Tiên Hoàng là người xưng đế đầu tiên sau giai đoạn Bắc thuộc.
b)- Hoàng đế cuối cùng: Vua Bảo Đại (1925 - 1945)
c)- Ở ngôi lâu nhất:
- Triệu Vũ Vương Triệu Đà: 71 năm (207-138 TCN).
- Lý Nhân Tông Càn Đức: 56 năm (1072 - 1127).
- Lê Hiển Tông Duy Diêu: 47 năm (1740 - 1786).
- Lê Thánh Tông Tư Thành: 38 năm (1460 - 1497)
d)- Ở ngôi ngắn nhất:
- Tiền Lê Trung Tông Long Việt: 3 ngày (1006).
- Dục Đức (Nguyễn Cung Tông): 3 ngày (1883)
e)- Lên ngôi trẻ nhất:
- Lê Nhân Tông lúc 1 tuổi (1442).
- Mạc Mậu Hợp lúc 2 tuổi (1562).
- Lý Cao Tông lúc 3 tuổi.
- Lý Anh Tông cũng 3 tuổi.
- Lý Chiêu Hoàng lúc 6 tuổi (1224).
- Đinh Phế Đế lúc 6 tuổi (979).
f)- Lên ngôi già nhất:
- Hồ Quý Ly khi 64 tuổi (1400).
- Trần Nghệ Tông Phủ, khi 50 tuổi (1370).
- Triệu Đà khi 50 tuổi (207 TCN)
g)- Vua thọ nhất:
- Vua Triệu Đà: 121 tuổi (257-137 TCN) (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư).
- Vua Bảo Đại 85 tuổi (1913-1997).
- Vua Thành Thái 76 tuổi (1879 - 1955).
- Vua Trần Nghệ Tông 74 tuổi (1321 - 1394).
h)- Chúa thọ nhất:
- Chúa Nguyễn Hoàng: 89 tuổi (1525 - 1613).
- Chúa Trịnh Tráng 81 tuổi (1577 - 1657).
- Chúa Trịnh Tạc 77 tuổi (1606 - 1682).
- Chúa Trịnh Căn 77 tuổi (1633 - 1709).
i)- Sống nhiều năm nhất ở nước ngoài trong thời gian làm vua: Bảo Đại
j)- Yểu mệnh nhất:
- Hậu Lê Gia Tông Duy Khoái 15 tuổi (1661 - 1675).
- Hậu Lê Huyền Tông Duy Vũ 17 tuổi (1654-1671).
- Lê Quang Trị bị giết khi 7 tuổi (1509-1516) (vua không chính thống)
k)- Vua đặt nhiều niên hiệu nhất: Lý Nhân Tông có 8 niên hiệu
l)- Vua có niên hiệu sử dụng lâu nhất: Lê Hiển Tông - niên hiệu Cảnh Hưng trong 47 năm (1740-1786)
m)- Vua có tôn hiệu dài nhất: Lý Thái Tổ (được truy tôn hiệu dài 52 chữ)
n)- Nữ vương đầu tiên (chỉ xưng vương): Trưng Vương (Trưng Trắc) 40-43
o)- Nữ hoàng duy nhất: Lý Chiêu Hoàng Phật Kim (1224 - 1225), vợ vua Trần Thái Tông Cảnh (1226 - 1258).
p)- Vua lập nhiều hoàng hậu nhất: Lý Thái Tổ lập 9 hoàng hậu (6 bà lập năm 1010, 3 bà lập năm 1016).
q)- Vua duy nhất ở ngôi 2 lần: Hậu Lê Thần Tông 1619-1643 và 1649-1662
r)- Vua Việt Nam đầu tiên lấy vợ người phương Tây: Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) lấy vợ người Hà Lan
s)- Vua có nhiều con làm vua: 2 người, mỗi người có 4 người con làm vua.
- Trần Minh Tông cha của Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông.
- Lê Thần Tông cha của Lê Duy Hựu (Chân Tông); Lê Duy Vũ (Huyền Tông); Lê Duy Cối; (Gia Tông); Lê Duy Hợp (Hy Tông).
t)- Vua có nhiều con rể làm Vua nhất:
Lê Hiển Tông có 3 con rể làm vua là Nguyễn Huệ (lấy công chúa Lê Ngọc Hân), Nguyễn Quang Toản (lấy công chúa Lê Ngọc Bình) và Nguyễn Ánh (cũng lấy Lê Ngọc Bình sau khi diệt nhà Tây Sơn). Nhưng khi còn sống Vua Lê Hiển Tông chỉ chứng kiến Nguyễn Huệ làm con rể mình.
u)- Vua có nhiều loại tiền mang niên hiệu nhất:
Lê Hiển Tông đã cho đúc 16 loại tiền Cảnh Hưng trong thời gian làm vua
v)- Vua trăm trận trăm thắng: Quang Trung (Nguyễn Huệ) (1753 - 1792)
w)- Người mở đất mạnh nhất, rộng nhất:
Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725)
x)- Vua nhiều con nhất:
Minh Mệnh (Nguyễn Phúc Đảm 1790 -1840) con chính thức là 142 gồm 78 trai, 64 gái
y)- Vua có nhiều vợ mà không có người con nào:
Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) có 300 vợ.
z)- Vua làm nhiều thơ văn nhất:
Tự Đức để lại 4.000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ Nôm, 600 bài văn.

2- VỀ CÁC TRIỀU ĐẠI
a)- Triều đại tồn tại lâu nhất: Nhà Hậu Lê 356 năm (1428 - 1527 và 1533 - 1789). Nếu tính chúa nguyễn và nhà nguyễn thì nhà nguyễn là triều đại tồn tại lâu nhất 400 năm (1545-1945)
b)- Triều đại tồn tại ngắn nhất: Nhà Hồ 7 năm (1400 - 1407).
c)- Triều đại truyền nhiều đời vua nhất:
- Nhà Hậu Lê: 27 vua (từ Thái Tổ đến Chiêu Thống),
- Nhà Trần (kể cả Hậu Trần): 15 vua.
d)- Triều đại truyền ít đời nhất: nhà Thục 1 vua.
e)- Triều đại truyền qua nhiều thế hệ nhất:
- Nhà Hậu Lê 14 đời (từ Thái Tổ Lê Lợi đến Trung Tông Duy Huyên, rồi từ Anh Tông Duy Bang đến Chiêu Thống Duy Kỳ).
- Nhà Lý: 9 đời (từ Thái Tổ Công Uẩn đến Chiêu Hoàng Phật Kim).
f)- Triều đại xảy ra phế lập, sát hại các vua nhiều nhất: Nhà Lê sơ 7/11 vua (Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lệ Đức Hầu,Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng). Nếu tính cả các vua không chính thức là Lê Quang Trị (1516), Lê Bảng và Lê Do (1519) thì tổng cộng có 10/14 vua.
g)- Triều đại có các vua bị bắt đi đày ra nước ngoài nhiều nhất: Nhà Nguyễn

3- VỀ QUÊ HƯƠNG CỦA VUA
a)- Nơi phát tích nhiều vua nhất:
- Thanh Hóa là quê hương phát tích của nhiều triều vua nhất ở Việt Nam với các triều vua: Phùng Hưng (giả thuyết); Nhà Ngô (giả thuyết); Nhà Tiền Lê (980 - 1009) (giả thuyết); Nhà Hồ (1400 - 1407); Nhà Hậu Lê (1428 - 1527); Nhà Nguyễn.
- Hà Nội với các triều đại: Hai Bà Trưng (40 - 43); Nhà Tiền Lý; Phùng Hưng (giả thuyết); Nhà Ngô (giả thuyết: 938 - 967).
- Ninh Bình với triều đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê (giả thuyết).
b)- Các triều vua đóng đô tại quê hương: Hai Bà Trưng (Mê Linh); Mai Hắc Đế (Nghệ An); Nhà Đinh (Ninh Bình); Nhà Hồ (Thanh Hóa).
c)- Việt Nam chỉ có 3 dòng họ xưng chúa:
- Thanh Hóa phát tích hai dòng họ chúa Nguyễn, chúa Trịnh.
- Hải Dương phát tích một dòng họ chúa Bầu.

4- VỀ KINH ĐÔ
a)- Nơi đóng đô nhiều nhất:
- Hà Nội là nơi đóng đô của nhiều triều đại nhất Việt Nam với các kinh đô như: Mê Linh, Cổ Loa, Long Biên, Thăng Long ... của các triều đại: Nhà Thục; Nhà Ngô; Trưng Vương; Nhà Tiền Lý; Phùng Hưng; Nhà Lý; Nhà Trần; Nhà Mạc; Nhà Hậu Lê.
- Ninh Bình với kinh đô Hoa Lư là nơi phát tích 3 triều đại: Nhà Đinh; Nhà Tiền Lê; Nhà Lý.
b)- Các kinh đô là quê hương của vua:
- Mê Linh là quê hương của Hai Bà Trưng.
- Nghệ An là quê hương của Mai Hắc Đế (quê quán: Hà Tĩnh).
- Hoa Lư là quê hương của Nhà Đinh,
- Thành Tây Đô là quê hương của Nhà Hồ.

GHI CHÚ:
*. NHÀ LÝ là triều đại từng đóng đô ở 2 kinh đô là Hoa Lư (1009 - 1010) và Thăng Long (1010 - 1225).
*. NHÀ TRẦN cũng từng đóng đô ở 2 kinh đô là Thăng Long (1225-1397) và Thành Tây Đô (1397-1400).
*. THÁI THƯỢNG HOÀNG:
Thái thượng hoàng có nghĩa là: vua cha bề trên (có trường hợp chỉ gọi là: thượng hoàng để có nghĩa rộng hơn là vua bề trên).
Tùy từng hoàn cảnh lịch sử, thực quyền của thượng hoàng khác nhau. Thượng hoàng có thể giao toàn quyền cho vua hoặc vẫn nắm quyền chi phối việc triều chính; hoặc có thể thượng hoàng chỉ mang danh nghĩa.
Thông thường thượng hoàng là cha vua, nhưng có các trường hợp không phải như vậy:
- Thượng hoàng Trần Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Duệ Tông, Duệ Tông mất lại lập cháu gọi bằng bác là Phế Đế.
- Thượng hoàng Mạc Thái Tổ truyền ngôi cho con là Thái Tông, Thái Tông mất sớm lại lập cháu nội là Hiến Tông.
- Thượng hoàng Lê Ý Tông là chú của vua Lê Hiển Tông.
Triều đại có nhiều thượng hoàng nhất là nhà Trần với 9 Thượng hoàng. Ngoài 7 thượng hoàng nhà Trần từ Trần Thừa tới Nghệ Tông cùng Hồ Quý Ly, Mạc Thái Tổ, các Thượng hoàng còn lại trong lịch sử Việt Nam đều không tự nguyện làm Thượng hoàng mà do sự sắp đặt của quyền thần trong triều.

Nguồn: Nguyễn Vô

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Công Cuộc Xây Dựng Kinh Thành Huế

ln_100

Vua Gia Long sau khi đánh bật nhà Tây Sơn ra khỏi Phú Xuân, thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế, việc đầu tiên là tái lập cơ đồ, vinh thăng triều đại, xây dựng quốc gia và gây uy tín đối với các lân bang. Vị vua nhà Nguyễn đầu tiên đã thực hiện ngay việc xây dựng kinh thành Phú Xuân và các vị vua kế nghiệp sẽ tiếp tục tu bổ, tô bồi cho bộ mặt của quốc gia ngày càng tráng lệ uy nghi.
Trước khi xưng đế, vua Gia Long bắt đầu cho xây dựng Hoàng Thành (tức Đại Nội) từ tháng 4 năm Nhâm Tuất (1802). Đúng hai năm sau, song song với công tác kiến trúc Hoàng Thành, vua hạ lệnh cho xây Cung Thành (tức Tử Cấm Thành). Lại đúng một năm sau (1804), vua bắt đầu cho xây Kinh Thành (còn gọi là Phòng Thành hay Hộ Thành).
Không kể đến những gì được xây dựng bên trong phạm vi của mỗi thành, nếu đem ba thành ấy (Cung Thành, Hoàng Thành và Kinh Thành) để so sánh với nhau, ai cũng thấy ngay cái thành thứ ba là đáng để ý hơn cả.
Thật vậy, công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vua Gia Long nói riêng và triều Nguyễn nói chung, chính là Kinh Thành Huế. Có thể nói đây là cổ tích lớn hơn hết của Việt Nam hiện đại.
***
Kinh Thành kiến trúc kiểu Vauban. Nếu kể cả thành phụ mang tên Trấn Bình Đài (sau này gọi là thành Mang Cá), Kinh Thành Huế có chu vi đáng kể đến gần 11 cây số. Thành cao 6.60m, dày trung bình 21m. Chính nhờ cái đồ sộ và vững chắc của nó mà Thành Huế vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Tính chất vĩ đại và kiên cố của công trình này đòi hỏi nhiều tài nguyên quốc gia đương thời, công cũng như của. Chính vua Gia Long cũng đã thú nhận trong câu mở đầu của tờ dụ ban vào tháng 3 năm Kỷ Mão (1819): “Việc xây thành là quan trọng lớn lao, của công tiêu tốn rất nhiều.”
Phần lớn nhân lực và khả năng kiến trúc của nước ta thời bấy giờ đều được vận dụng vào việc xây đắp này.
Trước khi vua Gia Long cho xây thành mới, ở Phú Xuân đã có thành cũ của các chúa Nguyễn trước kia để lại, rồi thành của Tây Sơn dựng lên. Nhưng thấy các thành cũ kia quá nhỏ hẹp, nên vua nghiên cứu địa bàn để mở rộng phạm vi cho kiến trúc mới.
Dựa theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Võ Liêm viết trong “Kinh Đô Thuận Hóa” in năm 1916, vua thân hành đi xem xét các địa điểm từ các làng Kim Long đến Thanh Hà (Bao Vinh ngày nay), đích thân đưa ra tiêu chuẩn và kích thước cần thiết để xây dựng thành lũy.
Vua Gia Long cho ngăn chận hoặc lấp một số đoạn của hai nhánh sông Kim Long và Bạch Yến, và vua cũng lợi dụng một số đoạn của hai nhánh sông này để làm hai con sông đào, một ở trong và một ở ngoài thành. Cả hai con sông ấy đều được đào vào năm khởi công xây Kinh Thành (1805); nhưng qua đến đời Minh Mạng, vua này mới đặt cho chúng hai cái tên đẹp và chính xác: Ngự Hà và Hộ Thành Hà.
Khởi đắp năm 1805, Kinh Thành choán hết địa phận của 8 làng: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại và An Bửu. Làng Phú Xuân bị mất nhiều đất hơn cả, nên được vua ban số bạc bồi thường, cộng thêm ruộng đất ở chung quanh Huế và đến cả Quảng Trị và Quảng Bình. Tháng 3, 1804, vua xem xét địa thế từ làng Kim Long đến Thanh Hà, thân chế kiểu thành, rồi mới giao cho lính ở kinh và dân các tỉnh mộ về làm. Ngoài những vật hạng lấy tại chỗ và các nơi phụ cận, lại còn phải chở thêm rất nhiều đá ở Thanh Hóa vào.
Huế trước năm 1805, sông Hương có hai sông nhánh là Bạch Yến và Kim Long, mảnh đất giữa sông Kim Long với sông Hương gọi là Vương Đảo nơi các chúa Nguyễn đặt kinh đô, cũng là nơi mà thành Huế sau này được dựng lên, nhưng có thể lệch đi chút ít. (Hình bổ túc thêm nhiều chi tiết của Triệu Phong)
Huế trước năm 1805, sông Hương có hai sông nhánh là Bạch Yến và Kim Long, mảnh đất giữa sông Kim Long với sông Hương gọi là Vương Đảo nơi các chúa Nguyễn đặt kinh đô, cũng là nơi mà thành Huế sau này được dựng lên, nhưng có thể lệch đi chút ít. (Hình bổ túc thêm nhiều chi tiết của Triệu Phong)
Trung Tá Ardant du Picq, qua bài viết “Les Fortifications de la Citadelle de Hué,” đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH) số XI, năm 1924, đặt nghi vấn ai là người thiết kế sơ đồ? Phải chăng là Đại Tá Olivier de Puymanel, một trong những cộng sự người Âu của vua Gia Long. Tuy nhiên, vị sĩ quan này đã chết vào năm 1799, trong khi công trình xây dựng kinh thành Huế chỉ bắt đầu vào năm 1805. Như vậy công trình xây dựng có thể được tiến hành theo các sơ đồ vẽ trước của Olivier, và vua Gia Long đã lược bớt để xây cho hợp với địa hình.
Sau 1805, sông Kim Long hầu như mất hẳn, còn chăng là đoạn biến thành Ngự Hà ở trong Thành Nội, còn sông Bạch Yến thì bị đứt đoạn khi tiếp xúc với Hộ Thành Hà, là đoạn sông đào chạy giáp quanh ba mặt Kinh Thành, ăn thông với sông Hương và Ngự Hà. (Hình: Triệu Phong)
Sau 1805, sông Kim Long hầu như mất hẳn, còn chăng là đoạn biến thành Ngự Hà ở trong Thành Nội, còn sông Bạch Yến thì bị đứt đoạn khi tiếp xúc với Hộ Thành Hà, là đoạn sông đào chạy giáp quanh ba mặt Kinh Thành, ăn thông với sông Hương và Ngự Hà. (Hình: Triệu Phong)
H. Cosserat trong bài “La Citadelle de Hue: Cartographie,” đăng ở BAVH số XX, năm 1933 có đoạn viết: “… chính sự xây dựng Kinh Thành Huế, cũng như nhiều thành khác trong nước sau đó, không còn mảy may nghi ngờ nào là chúng đều được hoàn toàn do người An-Nam chuẩn bị và nói chung, được thực hiện dưới quyền kiểm soát, đốc công và chỉ dẫn của riêng họ.”
***
Vua Gia Long không chọn xây kinh thành xa Phú Xuân, nơi các chúa Nguyễn đã đặt phủ chúa từ năm 1687. Vị trí này thực ra đáp ứng hoàn toàn điều kiện an ninh đòi hỏi cho một kinh đô vì gần núi để có chỗ ẩn khi gặp biến cố hiểm nguy, cũng khá xa bờ biển để khỏi bị cướp biển quấy phá, cùng sự hoạt động của các tàu chiến nước ngoài. Mặt khác, thuyền đi biển có thể lên gần đến Phú Xuân; như vậy về mặt thương mãi, Phú Xuân có tất cả thuận lợi của một cảng sông mà không bị trở ngại quân sự hay chính trị.
Mộc bản phác họa kinh thành Huế nhìn từ mặt sau. Thành Huế chu vi gần 11 cây số có hào nước bao bọc chung quanh, bảo vệ bên ngoài còn thêm hệ thống sông đào gọi là Hộ Thành Hà. Kỳ đài Phu Văn Lâu ở phía trước, nhìn ra sông Hương và núi Ngự Bình xa hơn bên phía hữu ngạn, đóng vai trò của một bức bình phong, che chắn kinh thành khỏi những ác khí. (Hình: Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1933)
Mộc bản phác họa kinh thành Huế nhìn từ mặt sau. Thành Huế chu vi gần 11 cây số có hào nước bao bọc chung quanh, bảo vệ bên ngoài còn thêm hệ thống sông đào gọi là Hộ Thành Hà. Kỳ đài Phu Văn Lâu ở phía trước, nhìn ra sông Hương và núi Ngự Bình xa hơn bên phía hữu ngạn, đóng vai trò của một bức bình phong, che chắn kinh thành khỏi những ác khí. (Hình: Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1933)
Mặt chính của kinh thành phải quay về phía Nam, đó là hướng truyền thống và trục của cung vua phải nằm trong hướng thuận lợi của địa bàn địa lý. Trục theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, là hướng thuận lợi nhất, vì nó là hướng có núi Ngự Bình, cao 104m, cách sông Hương 3 cây số về phía Nam, tạo cho cửa chính được bảo vệ như một bức bình phong, chống lại tất cả những ảnh hưởng tác hại và những quyền lực vô hình. Kế đó, hai hòn đảo nhỏ của sông Hương ở phía thượng và hạ nguồn, Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm “tả thanh long hữu bạch hổ” chầu trước mặt Kinh Thành, vua ngồi trên ngai nhìn về hướng Nam, làm cho vị trí ấy rất thuận lợi.
Mộc bản triều Nguyễn phác thảo Kinh Thành Huế ở mặt trước. (Hình: BAVH)
Mộc bản triều Nguyễn phác thảo Kinh Thành Huế ở mặt trước. (Hình: BAVH)
Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Kinh Thành Huế được khởi công xây dựng vào ngày 18 tháng 5, 1805. Các sử quan thuộc Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết: “Ất Sửu, năm thứ tư, mùa hạ, tháng Tư… Ngày Quí Mùi, xây đắp kinh thành… Lấy biền binh ở Kinh, Thanh Nghệ, Bắc Thành, quân và dân Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sung làm việc.”
Theo nội dung các tờ truyền ở Mục Lục Châu Bản triều Nguyễn, con số dân và lính triều đình đòi về kinh đô làm việc được ghi chép rõ ràng. Các dinh như Quảng Đức (Thừa Thiên): 4,421 quân dân; Quảng Trị: 4,151; Quảng Bình: 2,388; Quảng Nam: 7,495; Bình Định: 2,225; và Trấn Qui Nhơn: 2,436. Tổng cộng: 23,116 người. Ngoài ra còn có bảy tờ truyền khác gửi đi để đòi “viên quân” các dinh đồn, vệ, đội, quân dinh “hạn đến ngày 20 tháng 4 có mặt tại Kinh, điểm danh khởi công,” con số này có thể từ năm đến bảy ngàn người. Như vậy số dân công phải trên ba mươi ngàn, đó là chưa kể đến các thợ chuyên môn như mộc, hồ, đúc, chạm v.v…, bấy giờ đang làm việc trong Đại Nội, một công trình vốn đã được khởi công từ ba năm trước (1802) và trong Tử Cấm Thành (1804).
Tuy nhiên, số dân công có thể thay đổi tùy theo giai đoạn. Như vào năm 1818, thương gia Pháp Anguste Borel có dịp ghé Huế và ghi lại cho chúng ta biết trong “A Modern History of Vietnam,” số dân công làm việc bấy giờ lên đến 8 vạn, ông viết: “When we arrived at Hue, 80,000 men were busy to construct a huge wall in brick”.
Trong đợt thi công đầu tiên vào mùa hè năm 1805, dân và lính được huy động để ngăn sông, đào hào và đắp lên một cái thành sơ khởi bằng đất.
***
Trong quãng thời gian xây dựng Kinh Thành, Hoàng Thành, Cung Thành, đền đài, miếu điện, công thự, kiều lộ, lăng tẩm, v.v… , sức lực của dân chúng và lính tráng bỏ ra được trả công ra sao? Có hai nguồn tài liệu nói đến vấn đề này, một từ sử ký triều Nguyễn và một từ những người Tây Phương có dịp ghé đến nước ta thời bấy giờ.
Theo Đại Nam Thực Lục chính Biên, sử thần triều đình ghi rằng dân công được triều đình trả một cách rộng rãi. Trong lần khởi công xây đắp Kinh Thành, sau khi quân dân từ các dinh trấn tề tựu về kinh rồi, vua “ưu cấp tiền gạo” cho mỗi người. Thế rồi, “vua thấy công việc nặng nhọc, nghĩ để cho dân đỡ mệt, hạ lệnh mỗi buổi sáng làm đến giờ ngọ thì phải nghỉ, buổi chiều đến giờ dậu thì thôi, ai đau ốm được cấp thuốc thang điều trị.”
Mới đầu, thành chỉ đắp bằng đất nên từ tháng 4 đến tháng 8, đã hoàn tất. Sang năm 1807 lại tiếp tục công việc cho đến mãi cuối triều Gia Long. Sau 4 tháng đầu, vua Gia Long “cho binh đinh làm việc về quê nghỉ ngơi, cấp cho lương đi đường hằng ngày…”
Nhìn chung, chúng ta thấy triều đình Gia Long đã có để ý đến đời sống của dân công, từ giờ giấc làm việc đến tiền gạo ăn uống. Tuy nhiên nếu nhìn sự kiện bằng một chiều hướng khác, từ những người ngoại quốc, thì vấn đề xem ra có phần trái ngược.
Chợ Đông Ba trước cửa thành đặt cùng tên, nằm bên bờ sông Gia Hội (Hộ Thành Hà). Chợ nhóm họp suốt ngày đêm, nên mới có câu đối mà chưa ai họa lại được: “Chợ Đông Ba, đông ba buổi.” Chợ này về sau dọn ra vị trí hiện nay và dân gian có câu: “Chợ Đông Ba dọn ra ngoài dại” do hồi trước nơi đây là bãi đất bỏ hoang, cỏ dại mọc đầy, quanh năm dại nắng dại mưa. (Hình: BAVH)
Chợ Đông Ba trước cửa thành đặt cùng tên, nằm bên bờ sông Gia Hội (Hộ Thành Hà). Chợ nhóm họp suốt ngày đêm, nên mới có câu đối mà chưa ai họa lại được: “Chợ Đông Ba, đông ba buổi.” Chợ này về sau dọn ra vị trí hiện nay và dân gian có câu: “Chợ Đông Ba dọn ra ngoài dại” do hồi trước nơi đây là bãi đất bỏ hoang, cỏ dại mọc đầy, quanh năm dại nắng dại mưa. (Hình: BAVH)
Năm 1818, Auguste Borel, thuyền trưởng thương thuyền La Paix, sau 4 tháng cư ngụ tại Huế và có dịp mục kích mọi sinh hoạt ở đây, nhất là việc xây gạch mặt ngoài Kinh Thành, cho biết:
“Nghề nông bị lãng quên, một phần vì khí hậu oi bức làm dân chúng lười biếng, nhưng phần chính là vì nhà vua trưng dụng hầu hết mọi người để kiến trúc thành lũy cùng những công tác khác (dĩ nhiên là không trả lương). Khi chúng tôi đến Huế thì có 80,000 người đang bận rộn xây dựng một bức thành đồ sộ bằng gạch.
“Nhiều công nhân đang nấu kim loại để đúc dã pháo. Vua nghĩ rằng sự khốn khổ sẽ giữ được dân chúng, thích hợp cho chế độ chuyên chế. Chính nhờ sự chuyên chế đó mà vua mới ngồi yên được trên ngai vàng. Như vậy nhà vua đã rút tỉa hết tất cả mọi tài nguyên đáng lẽ được dùng để làm cho quốc gia thịnh vượng; và ngăn chận mọi sự tiến bộ có thể thực hiện được nhờ vào nông nghiệp. Khi Chaigneau và Vannier khuyên Gia Long nên phát triển ngành thương mãi để đem lại sự giàu mạnh cho nước nhà, thì vua trả lời: ‘Nếu dân chúng được giàu có thì chúng sẽ trở nên khó bảo.’”
Paul Rheinart, một chính khách từng ở lâu năm tại nước ta, trong bức thư viết gởi cho thống đốc Pháp tại Nam Kỳ, có những nhận xét về dân tình trong xã hội Việt Nam vào thế kỷ 19:
“Dân Việt Nam đối với triều đình, chẳng khác gì một bầy thú mà triều đình là chủ; triều đình muốn sử dụng thế nào tùy ý. Triều đình không cần xét xem bầy thú của mình có no ấm thịnh vượng hay không, mà chỉ cần biết nó ngoan ngoãn là đủ… Đối với dân, triều đình chỉ có quyền lợi chứ không có bổn phận nào, trái lại dân chỉ có bổn phận mà thôi.”
Một chứng nhân khác, Giám Mục Eyot, đã không khỏi xúc động khi chứng kiến tại chỗ, cảnh bóc lột sức lao động quá mức của triều đình nhà Nguyễn, lúc họ bắt dân chúng phải chịu quá nhiều gian khổ để xây cất Hoàng Thành vào năm 1804, trong bức thư viết vào tháng Bảy cùng năm, Giám Mục Eyot viết:
“Thuế rất cao. Nhà vua ưa kiến thiết nhiều cho đô thị mới nên dân chúng phải khổ cực vì sưu dịch nặng… Hiện đang xây đắp Hoàng Thành… Vì số dân công rất đông và không ai được rời xa nhiệm sở nên mùi xú uế bốc lên thật khó chịu. Ngoài ra nhiều người phải dầm mình dưới nước và bùn ngập. Không ai có thể chịu đựng được lâu, cần có người khác thay phiên. Dân công còn bị quất bằng roi mây nên có khi phải thuê người làm thay. Dân chúng kêu ca nhưng nhà cầm quyền chẳng buồn nghe.”
Trong khi lương hằng tháng mỗi dân công là 1 quan 5 tiền, có người lại dám bỏ ra 1 quan để thuê kẻ khác làm thay cho mình trong một ngày. Mới xây Hoàng Thành mà đã như vậy, huống chi khi xây Kinh Thành, một công trình lớn lao, đòi hỏi nhân lực gấp trăm lần.
***
Năm 1818, thành mới bắt đầu được xây gạch ở hai mặt Nam và Tây, rồi đến mặt Bắc, công việc giao cho Hoàng Công Lý, Trương Phúc Đảng và Nguyễn Đức Sỹ, đến năm sau thì xong. Năm 1820, mưa lớn làm đổ mất 1,200m phải sửa chữa lại. Năm 1821, tiếp tục công việc và xây gạch mặt phía Đông.
Năm 1822 lại mưa lớn, làm hỏng 8,228m, phải giao cho Trần Văn Nang, Nguyễn Văn Vân sửa. Qua năm 1824, còn tu bổ một lần nữa công việc mới thật hoàn thành.
***
Kinh Thành được xây trong suốt 27 năm (1805-1832), dưới hai đời Gia Long và Minh Mạng. Thành có chu vi 9,949m, cao hơn 6m, dày 20m, ở giữa là đất, hai mặt trong và ngoài xây bằng gạch. Chung quanh bên ngoài có hào rộng 22.8m và sâu 4m. Giữa dãy hào và tường thành có chừa một con đường ven hào rộng 10m. Từ dãy hào này ra xa chừng 250m có thêm hệ thống sông đào gọi tên là Hộ Thành Hà, ăn thông với sông Hương, chạy bọc ba mặt Tây, Bắc và Đông, dài 7km và rộng 35m, làm vòng đai bảo vệ mặt ngoài cùng của Kinh Thành.
Nhô ra ngoài về góc Đông Bắc của Kinh Thành có xây một thành phụ gọi là Thái Bình Đài. Đến năm 1836 đổi tên thành Trấn Bình Đài, sau lại được gọi là Thành Mang Cá. Chu vi thành là 986m, hào phía ngoài ăn thông với hào của Kinh Thành. Trấn Bình Đài được xây để giữ an ninh cho Bao Vinh, thời bấy giờ là nơi thị tứ quan trọng, thuyền sông tàu biển lui tới mua bán tấp nập, đồng thời giữ phòng thủ hai nhánh Sông Hương ở hạ nguồn.
Kinh Thành Huế có 10 cửa chính, mỗi cửa 3 tầng, cao chừng 16m. Tất cả xây năm 1809. Mười cửa gồm: Cửa Chánh Bắc hay Cửa Hậu, Tây gọi là Mirador I; Cửa Tây Bắc hay Cửa An Hòa, tức Mirador II; Cửa Chánh Tây; Cửa Tây Nam tức Cửa Hữu; Cửa Chánh Nam hay Cửa Nhà Đồ; Cửa Quảng Đức (Hồi kinh đô thất thủ lúc 7 giờ 30 sáng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu, vua Hàm Nghi cùng lưỡng cung đình thần chạy ra cửa này, theo bờ sông đi lên chùa Linh Mụ, rồi ra La Chữ, Quãng Trị). Dân Huế còn gọi cửa này là Cửa Sập vì bị đổ nát do lụt lội nhưng hiện nay đã được xây lại; Cửa Thể Nhơn tức Cửa Ngăn (vua thường dùng con đường từ Hoàng Thành ra đến sông Hương đi qua cửa này, hai bên có xây thành cao ngăn lại); Cửa Đông Nam còn gọi là cửa Thượng Tứ; Cửa Chánh Đông hay Cửa Đông Ba, đặt theo tên một xóm ở phía trước; Cửa Đông Bắc hay còn gọi là Cửa Kẻ Trài và cũng là Cửa Mirador X, theo người Tây.
Thành Huế nhìn từ cao. 10 cửa của Kinh Thành thông với ngoại thành, trên có vọng lâu, cao tổng cộng 16 m, bên ngoài có hào nước rộng khoảng 22m, sâu 4m. Ngoài ra, giữa hào với thành có chứa thêm lối đi rộng 10m. (Hình: BAVH)
Thành Huế nhìn từ cao. 10 cửa của Kinh Thành thông với ngoại thành, trên có vọng lâu, cao tổng cộng 16 m, bên ngoài có hào nước rộng khoảng 22m, sâu 4m. Ngoài ra, giữa hào với thành có chứa thêm lối đi rộng 10m. (Hình: BAVH)
Năm 1824, vọng lâu được xây thêm trên hai cửa Chánh Đông và Đông Bắc, rồi đến các cửa Chánh Tây, Tây Nam, Chánh Nam, Quảng Đức và Đông Nam vào năm 1829. Năm 1831 ở hai cửa còn lại Chánh Bắc và Tây Bắc.
Ngoài 10 cửa thông với ngoại thành, còn một cửa thông với Trấn Bình Đài gọi là Trấn Bình Môn, cửa này không có vọng lâu và chỉ cao chừng 5m. Phía Nam của Trấn Bình Đài có một cửa thông ra bên ngoài, gọi là Cửa Trường Định, còn có tên là Cửa Trít, không có vọng lâu và không cao quá thành.
Tại chính giữa và ở về mặt Nam của Kinh Thành, có Kỳ Đài mà dân chúng gọi nôm na là Cột Cờ, xây bằng gạch từ năm 1809. Đài có 3 tầng, tầng dưới cao 5.6m, tầng giữa cao 5.8m và tầng trên cao 6m. Ở tầng trên và chính giữa có dựng cột cờ cao 29.52m, chia làm 2 tầng. Sau nhiều lần cột bị gãy do bão và chiến tranh, năm 1947 cột được xây lại bằng bê tông cốt sắt gồm ba tầng và cao 37m. Trên đài có 8 nhà để súng và 2 điếm canh. Lúc trước mỗi khi có tuần hành, tại đây đều treo cờ hiệu riêng. Thường ngày có quan chức coi việc leo lên, dùng ống thiên lý để quan sát ngoài mặt biển.
Kỳ đài Phu Văn Lâu ngày nay. (Hình: Lưu Ly/Wikipedia)
Kỳ đài Phu Văn Lâu ngày nay. (Hình: Lưu Ly/Wikipedia)
Trên bốn mặt Kinh Thành có xây tất cả 24 pháo đài, nơi đặt súng đại bác để phòng thủ, xây từ năm 1818 và do chính Vua Gia Long đặt tên, mà chữ đầu lấy tên theo phương hướng. Mặt Nam có các đài Nam Minh, Nam Hùng, Nam Thắng, Nam Chính, Nam Xương và Nam Hanh. Mặt Đông có Đông Thái, Đông Trường, Đông Gia, Đông Phụ, Đông Vĩnh và Đông Bình. Tây có Tây Thành, Tây Tuy, Tây Tĩnh, Tây Dực, Tây An và Tây Trinh. Bắc có Bắc Định, Bắc Hòa, Bắc Thanh, Bắc Trung, Bắc Thuận và Bắc Điện.
Tại mỗi đài có 1 kho thuốc súng, xây ở phần lồi của lũy thành và được bảo vệ bằng đất. Ngoại trừ hai đài ở phía Bắc của Cửa Chính Đông và Tây Thành Thủy Quan, mỗi nơi có hai kho. Bọc lũy thành có nhiều lỗ châu mai để đặt đại bác. Ba cái cho một sườn và năm cái cho mỗi mặt của mỗi pháo đài hay mỗi đài quan sát. Dọc mé thành có các vệ quân đóng giữ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 lính.
Ngoài ra, một số bộ phận quan hệ mật thiết và gắn liền với Kinh Thành cũng tuần tự được xây dựng ở bên trong lẫn ngoài thành, như: Phu Văn Lâu (1819), Quốc Tử Giám (1821, 1908), Quốc Sử Quán (1821), Lầu Tàng Thơ (1825), Lục Bộ (1827), Tôn Nhơn Phủ (1832), Quan Tượng Đài (1836), Cơ Mật Viện tức Tam tòa (1832), Nghênh Lương Đình và Thương Bạc Viện (1875), Viện Bảo Tàng (1923)…
***
Vào thời Minh Mạng ở nội thành vẫn chưa có cư dân, ngay cả bên ngoài, giữa Kinh Thành và Hộ Thành Hà cũng vậy. Sang đến đời Tự Đức, nhà cửa mới dần dần mọc lên, lúc đầu là nhà của các quan trong triều, rồi đến bà con của họ, người quen, người cùng làng… Thế rồi thành xóm, thành chợ, nhưng vẫn chưa nằm trong hệ thống làng xã của thế kỷ 19.
` Nội thành được Trung Tá Ardant du Picq miêu tả như sau: “Đại Nội nằm trong Kinh Thành, bao quanh bằng hào và tường cao. Chung quanh là một thành phố bản xứ chính hiệu với lục bộ, dinh thự của quan lại triều đình, nhà ở của người buôn bán hay cửa hàng tiểu công nghệ bản xứ, trường học, vườn tược, miếu chùa… “
Xa giá của vua tiến vào Đại Nội qua cửa Ngọ Môn, trở về sau lễ tế Nam Giao. (Hình: Triệu Phong sưu tầm)
Xa giá của vua tiến vào Đại Nội qua cửa Ngọ Môn, trở về sau lễ tế Nam Giao. (Hình: Triệu Phong sưu tầm)
John Crawfurd, nhà du lịch người Anh từng được phép viếng thăm Kinh Thành Huế năm 1822, miêu tả: “Khoảng diện tích trong thành có nhiều con đường đều đặn và rộng rãi, chạy cắt nhau ở những góc vuông… Những điều đầu tiên bên trong nội thành gây sự tò mò của chúng tôi là những kho lúa của triều đình. Chúng tạo thành những dãy khổng lồ của nhiều căn được sắp đặt theo một thứ tự đều đặn, chứa đầy lúa gạo, mà chúng tôi nghe nói có thể nuôi cả kinh thành trong nhiều năm. Sự tích trữ lương thực này có tác dụng giữ vững chính sách độc đoán của triều đình… Những kiến trúc binh xá ở đây thật tối ưu. Kể về phương diện có hàng lối ngăn nắp và sạch sẽ thì các binh xá này tỏ ra không thua kém so với các đạo quân được tổ chức tốt nhất ở Âu Châu. Chúng dàn trải và bao bọc toàn bộ phần ngoài Kinh Thành. Nghe nói thường có từ 12,000 đến 13,000 người trong đạo quân thường trực ở các binh xá tại kinh đô.”
Phê bình kiến trúc Kinh Thành Huế, Le Rey, thuyền trưởng tàu Henri, người từng đến Huế năm 1819 phê bình: “Kinh Thành Huế nhất định là thành lũy đẹp và đều đặn nhất ở Indo-China, kể cả hai thành do người Anh làm là William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras.”
John Crawfurd, nhà du lịch người Anh từng được phép viếng thăm Kinh Thành Huế năm 1822, lúc về nước viết sách ca ngợi công trình của nó và kết luận: “Không cần phải nói, đối với một pháo đài như thế này một kẻ thù ở Á Châu không làm gì hạ nổi. Nhược điểm lớn nhất của nó ở chỗ nó rộng mênh mông. Tôi tưởng phải cần đến ít nhất một đạo quân 50,000 người mới đủ cho sự phòng thủ.”
Oái oăm thay, thành lũy này lại it nhất hai lần thất thủ và chỉ trong thời gian nhanh chóng nhất. Lần thứ nhất vào ngày 5 tháng Bảy năm 1887, cái ngày mà mọi người dân Huế đều gọi là ngày Kinh Đô Thất Thủ, nhiều trăm người dân vô tội bị chết vạ oan, hiện nay hằng năm, người dân Huế làm lễ cầu hồn rất trang nghiêm tại ngã tư Âm Hồn, bên trong cửa Đông Ba. Lần thứ hai vào dịp Tết Mậu Thân, 1968, thành mất chỉ trong một buổi sáng. Đó là một dấu hỏi lớn về mặt chiến thuật và chiến lược của nó.
John Crawfurd, nhà du lịch người Anh từng được phép viếng thăm Kinh Thành Huế năm 1822, miêu tả: “Khoảng diện tích trong thành có nhiều con đường đều đặn và rộng rãi, chạy cắt nhau ở những góc vuông… Những điều đầu tiên bên trong nội thành gây sự tò mò của chúng tôi là những kho lúa của triều đình. Chúng tạo thành những dãy khổng lồ của nhiều căn được sắp đặt theo một thứ tự đều đặn, chứa đầy lúa gạo, mà chúng tôi nghe nói có thể nuôi cả kinh thành trong nhiều năm. Sự tích trữ lương thực này có tác dụng giữ vững chính sách độc đoán của triều đình… Những kiến trúc binh xá ở đây thật tối ưu. Kể về phương diện có hàng lối ngăn nắp và sạch sẽ thì các binh xá này tỏ ra không thua kém so với các đạo quân được tổ chức tốt nhất ở Âu Châu. Chúng dàn trải và bao bọc toàn bộ phần ngoài Kinh Thành. Nghe nói thường có từ 12,000 đến 13,000 người trong đạo quân thường trực ở các binh xá tại kinh đô.” Phê bình kiến trúc Kinh Thành Huế, Le Rey, thuyền trưởng tàu Henri, người từng đến Huế năm 1819 phê bình: “Kinh Thành Huế nhất định là thành lũy đẹp và đều đặn nhất ở Indo-China, kể cả hai thành do người Anh làm là William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras.” John Crawfurd, nhà du lịch người Anh từng được phép viếng thăm Kinh Thành Huế năm 1822, lúc về nước viết sách ca ngợi công trình của nó và kết luận: “Không cần phải nói, đối với một pháo đài như thế này một kẻ thù ở Á Châu không làm gì hạ nổi. Nhược điểm lớn nhất của nó ở chỗ nó rộng mênh mông. Tôi tưởng phải cần đến ít nhất một đạo quân 50,000 người mới đủ cho sự phòng thủ.” Oái oăm thay, thành lũy này lại it nhất hai lần thất thủ và chỉ trong thời gian nhanh chóng nhất. Lần thứ nhất vào ngày 5 tháng Bảy năm 1887, cái ngày mà mọi người dân Huế đều gọi là ngày Kinh Đô Thất Thủ, nhiều trăm người dân vô tội bị chết vạ oan, hiện nay hằng năm, người dân Huế làm lễ cầu hồn rất trang nghiêm tại ngã tư Âm Hồn, bên trong cửa Đông Ba. Lần thứ hai vào dịp Tết Mậu Thân, 1968, thành mất chỉ trong một buổi sáng. Đó là một dấu hỏi lớn về mặt chiến thuật và chiến lược của nó.
Toán lính giữ thành thời nhà Nguyễn qua nét ký họa của Brossard de Corbigny, trích trong cuốn “Vòng Quanh Thế Giới,” in năm 1878. (Hình: BAVH)
Sau khi Kinh Thành bắt đầu được xây dựng từ năm 1805, bộ mặt của Huế đã có nhiều thay đổi. Một số làng mạc bị xóa mất, chỉ còn chăng là cái tên trong sử sách. Một số dòng sông chảy qua Huế xưa cũng vậy, nay còn lại rất ít di tích. Ngày nay nhìn lại, không ai có thể hình dung được Huế đã có một sự thay đổi lớn lao như vậy, ít ai nghĩ đến chuyện lấp sông đào hào, lấp hồ đào kênh, mà cứ tưởng rằng Kinh Thành to lớn ấy được xây trên vùng đất đã có sẵn như vậy.
Chỉ riêng Kinh Thành Huế cũng đủ để cho mọi người thán phục tài năng và công lao xây đắp của tiền nhân. Công lao xây dựng ấy không chỉ riêng của một vị vua, một dòng họ hay một triều đại, mà là của chung cả hàng vạn dân chúng Việt Nam đương thời. Mồ hôi nước mắt của mọi giai tầng trong xã hội của một thời đã đổ ra, đôi khi với những hy sinh xương máu, để kiến tạo nên một kỳ công, hay đúng hơn một kỳ quan cho đất nước.
Tài liệu tham khảo:
– Bộ sách Bulletin des Amis du Vieux Hue, bản tiếng Pháp lẫn bản Việt ngữ của nhà xuất bản Thuận Hóa.
– Cố Đô Huế của Thái Văn Kiểm.
– Niên san Nghiên Cứu Việt Nam, 1973.
– Đời Sống Văn Hóa Cung Đình – Lê Nguyễn Lưu.
– Huế Đẹp và Thơ – Thi Long.
– Kiến Trúc Cố Đô Huế – Phan Thuận An.

Tìm hiểu quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam (bài 2)

1835
Bản đồ Đại Việt 1835 (Ảnh từ trang Đại Việt Cổ Phong)

IV. Họ Nguyễn mở đất Đàng Trong
  1. Bối cảnh lịch sử
            Sau cục diện Nam – Bắc triều kết thúc, hình thành cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong. Như vậy, đến giai đoạn này, quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam được thực hiện ở Đàng Trong thông qua những chính sách của các chúa Nguyễn.
            Mở đầu cho công cuộc này, không thể không nhắc đến sự kiện: Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá ở tuổi 34. Theo ông là những người bộ khúc( phụ tách địa phương) ở Tống Sơn và nhân dân xứ Thanh Hoa. Nguyễn Hoàng dựng dinh ở Ái Tử (Quảng Trị), lôi kéo được đông đảo nhân dân vào Thuận – Quảng với những chính sách ưu đãi, khoan hoà. Đại Nam thực lục tiền biên cho biết:“ Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được nhân dân mến phục, bấy giờ thường xuyên là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng lên, thực là xây nền từ đấy”[29: tr 87].
             Như vậy, từ những duyên cớ mà lịch sử, Nguyễn Hoàng với sự kiện vào trấn thủ ở vùng Thuận – Quảng, đã đặt những viên gạch đầu tiên trong sự nghiệp gây dựng nên xứ Đàng Trong. Dòng họ Nguyễn đã có công rất lớn trong việc khai phá vùng đất Nam Bộ mà trước đây là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam.
            Những nguyên do cho quá trình mở rộng về phía Nam của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong được giải thích như sau:
            Thứ nhất, xuất phát từ cuộc chiến tranh Trịnh –Nguyễn. Đó là cuộc chiến tranh mà các chúa Nguyễn đã xác định là không thể tránh khỏi, sớm muộn gì cũng xảy ra và đã diễn ra thì với mức độ rất quyết liệt, tàn khốc. Phía Bắc chịu sức ép của Đàng Ngoài, phía Tây là rừng núi hoang vu, hiểm trở, phía Đông là biển cả bất trắc, không còn cách nào khác là phải tiến về phía Nam để xây dựng chổ đứng chân, phòng khi chúa Trịnh đánh vào và đồng thời biến đây thành nơi có thể cung cấp nhân tài, vật lực cho cuộc chiến. Có thể nói, đây là lý do quan trọng bậc nhất dẫn đến quá trình khai phá về phía Nam của các chúa Nguyễn.
            Thứ hai, sự lớn mạnh vượt bậc đã khiến Đàng Trong như một người khổng lồ đã gò bó trong chiếc áo đã chật nên cần tìm một chiếc áo lớn hơn. Sự gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế khiến nhu cầu mở đất của Đàng Trong trở nên cấp thiết. Nông nghiệp được xem là chỗ dựa lâu dài của Đàng Trong. Đất đai vùng Thuận – Quảng chật hẹp, không màu mở nên các chúa Nguyễn nhắm đến vùng đất phía Nam rộng lớn đất đai phì nhiêu, đã bị hoang hóa là một điều hiển nhiên.
            Thứ ba, ngoài các nguyên nhân xuất phát từ nội tại đó, quá trình này còn được thúc đẩy thực hiện bởi những điều kiện khách quan thuận lợi. Sự suy yếu của Chân Lạp vào các thế kỷ XVI, XVII là một cơ hội thuận tiện để các chúa Nguyễn thực hiện quá trình mở mang lãnh thổ của mình. Bởi vùng Nam Bộ ngày nay, trước đây là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam đã bị hoang hóa trở lại. Khi cộng đồng người Việt và người Chăm tới đây thì vùng đất này hầu như là một vùng đất hoang không có người ở. Đó là một nguyên nhân rất quan trọng để dẫn đến cuộc khai phá đất hoang về phía Nam của các chúa Nguyễn.
  1. Qúa trình Sáp nhập các tiểu quốc Champa vào xứ Đàng Trong
            Năm 1558, người Chăm Hoa Anh thường xuyên quấy rối, cướp bóc dân cư người Việt làm ăn sinh sống ở đây, nên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tiến quân vào Hoa Anh, tới sông Đà Rằng đối phó với quân Champa, sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ xứ Đàng Trong.
Đến năm 1611, quân Champa ở Hoa Anh lại quấy nhiễu đánh phá, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong vào Phú Yên đánh dẹp và thu phục tiểu quốc Hoa Anh vào lãnh thổ Đàng Trong. Mở rộng Đàng Trong từ đèo Cù Mông đến đèo Đại Lãnh. Năm 1653, vua Champa là Bà Tấm đem quân vào đòi lấy Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc Hầu làm thống binh đem 3.000 quân đi đánh, thu phục vùng đất Khánh Hòa ngày nay. Năm 1675, Người Champa thường xuyên cho quân đánh phá đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần cho quân đánh, Vua Chăm là Bà Bật phải xin hàng, dâng đất cho chúa Nguyễn từ sông Phan Rang trở ra, Chúa Nguyễn đặt làm phủ Thái Ninh và dinh Thái Khang để trấn thủ.
            Tháng 2 năm 1693, nhân vua Champa là Bà Tranh chủ động tấn công vào vùng Khánh Hòa ngày nay (tuyên bố bỏ lệ triều cống, “làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh), chúa Nguyễn Phúc Chu đã ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh chỉ huy quân đánh dẹp, sáp nhập vùng đất còn lại của Champa, lập nên phủ Bình Thuận. Như đã trình bày kể từ sau năm 1471 trở đi, Champa đã không còn tồn tại với ý nghĩa là một vương quốc độc lập nữa mà trở thành một đơn vị hành chính đặc biệt nhất của Đại Việt – một phủ có quyền tự trị tương đối và vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Đại Việt. Việc Champa suy yếu và lần lượt sáp nhập thống nhất vào Đại Việt là kết quả tất yếu của một quá trình, hình thành nên sự cố kết dân tộc, pha trộn bản sắc văn hóa giữa các cộng đồng dân cư cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
  1. Quá trình mở đất Nam Bộ của chúa Nguyễn
            Vùng đất Đồng Nai được xem là vùng đất đầu tiền mà lưu dân Việt trên bước chân tiến vào khai phá Nam Bộ. Trước đó, Đồng Nai hầu như hoang vắng vào cuối thế kỷ XVI thì vào đầu thế kỷ XVII  trở nên sôi động với sự xuất hiện của lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt từ vùng Thuận Quảng di cư vào.
 Nguyên nhân của hiện tượng xã hội này chính là cuộc chiến tranh tương tàn của hai dòng họ phong kiến Trịnh – Nguyễn. Cuộc giao tranh quyết liệt kéo dài 175 năm, trong đó có 45 năm đã diễn ra liên tiếp 7 trận đánh lớn cực kỳ ác liệt. Để phục vụ cho nhu cầu của cuộc chiến tranh giành giật quyền lợi này, đồng thời cũng để thỏa mãn như cầu xa hoa của giới quý tộc, các tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn  thi nhau vơ vét cùng kiệt nhân lực, vật lực của dân chúng, gây nên cảnh đói khổ lầm than mọi nơi. Chỉ riêng xứ Đàng Trong, sự vơ vét bóc lột của phong kiến Nguyễn đã làm cho nhân dân vô cùng cơ cực lần than phải rời bỏ ruộng vườn làng mạc, phiêu tán đi khắp nơi để mưu cầu cuộc sống. Lê Quý Đôn ghi nhận “trong cõi đã xảy ra hạn và đói, dân phiêu bạt và chết đói rất nhiều”.
Chính vì vùng đất phía Nam là vùng đất của vương quốc Champa đang suy tàn, và xa hơn nữa là vùng đất sau này có tên là Đồng Nai – Gia Định, một vùng đất màu mỡ nhưng hầu như vô chủ là nơi thu hút mạnh mẽ lưu dân Việt đi tìm đất sống. Vì vậy làn sóng di dân ngày một dâng lên. Trong số lưu dân Việt đến Đồng Nai, ngoài những nông dân nghèo khổ, đói rách là thành phần chủ yếu, còn có những người trốn tránh binh dịch, sưu thuế, binh lính đào ngũ, các tù nhân bị lưu đầy, thầy lang, thầy đồ nghèo và cả những người giàu có nhưng  vẫn muốn tìm đất mới để mở rộng công việc làm ăn, làm giàu thêm.
Những lưu dân Việt thuộc lớp tiên phong đi vào vùng đất mới Đồng Nai – Gia Định lập nghiệp làm thành nhiều đợt trước cả thời Trịnh – Nguyễn phân tranh nhưng dâng lên thành làn sóng mạnh mẽ hơn là vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Phần đông họ chọn phương thức tự động, đi lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc những người khỏe mạnh đi trước tạo dựng cơ nghiệp rồi đón cả gia đình đến sau, hoặc một vài gia đình cùng cả xóm kết nhóm với nhau cùng đi. Phần lớn họ chọn thuyền buồm hay ghe bầu làm phương tiện di chuyển chính, bởi lúc bấy giờ di chuyển giữa các phủ miền Trung với Đồng Nai – Gia Định chủ yếu là đường biển, một số người phải trèo đèo lội suối đi đường Bộ, đi dần từng chặng một, đến một địa phưong ở lại một thời gian, thấy bám trụ được thì ở lại lập nghiệp, bằng không đi tiếp và lần hồi cũng tới vùng đất mới Đồng Nai.
Tiến trình nhập cư của lưu dân Việt vào vùng Đồng Nai – Gia Định từ lẻ tẻ rời rạc, dần dần có quy mô lớn hơn. Những lưu dân Việt từ việc lập những làng xóm nhỏ trên vùng đất Đồng Nai đã thôi thúc các chúa Nguyễn đặt những bước tiến lớn hơn trên vùng đất này.
Sự kiện quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho mối quan hệ chính thức giữa Chân Lạp và Đàng Trong cũng như đối với quá trình mở đất của các chúa Nguyễn đó là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa vua Chân Lạp là Chettha II với công chúa Ngọc Vạn vào năm 1620.
Đầu thế kỷ XVII, khi mà uy thế của chúa Nguyễn đã lan vào cả đất Nam Bộ thì việc tìm đến chúa Nguyễn như một cứu cánh đã xuất hiện đối với vương triều Chey Chettha (1618 – 1625) nhằm đối trọng với Ayuthaya.
Cuộc hôn nhân mang màu sắc ngoại giao giữa Chettha II với công chúa Ngọc Vạn vào năm 1620 là sự kiện có ý nghĩa xác lập cho mối bang giao giữa Chân Lạp và Đàng Trong một cách chính thức, đồng thời đặt dấu ấn cho công cuộc mở đất tới vùng Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung của các chúa Nguyễn. Cuộc hôn nhân này đã mở ra nhiều sự thay đổi đối với vận mạng của Chân Lạp và đem đến cho Đàng Trong những bước tiến diệu kỳ trên con đường mở mang bờ cõi. Đó là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho các chúa Nguyễn thực hiện công cuộc mở đất ở Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung.
Những xúc tiến cho công cuộc mở đất của các chúa Nguyễn vào Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai được đẩy mạnh thực hiện ngay sau cuộc hôn nhân này. Sau đó là những giúp đỡ thường xuyên của chúa Nguyễn Phước Nguyên cho Chân Lạp. Thậm chí, chúa Nguyễn còn gửi cả quân đội và chiến thuyền đến giúp Chân Lạp chống lại các hoạt động chiến tranh và gây sức ép của quân Xiêm khiến cho liên minh giữa Chân Lạp và Đàng Trong ngày càng chặt chẽ hơn. Mặt khác, công chúa Ngọc Vạn, bấy giờ đã trở thành hoàng hậu của Chân Lạp, thường đề nghị với chồng để tạo điều kiện cho người Việt sang sinh sống, khai phá ở vùng Prey Nokor – Kas Krobei (vùng Sài Gòn, Bến Nghé sau này), Đồng Xoài, Mô Xoài (vùng Biên Hòa, Bà Rịa) vẫn đang còn bỏ hoang. Bà chính là cầu nối của mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong, đồng thời là nhân tố quan trọng trong những ngày đầu mở đất về phía Nam Bình Thuận của chúa Nguyễn. Đây chính là cơ sở thuận lợi từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình đối với vùng đất đã được khẩn hoang.
Sự kiện nữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xâm nhập vào đất Đồng Nai của chúa Nguyễn là việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn vào năm 1623.
Sự liên minh Đàng Trong – Chân Lạp ngày càng gắn bó, cùng với vai trò cầu nối của Ngọc Vạn khiến cho lưu dân người Việt vào làm ăn, sinh sống ở vùng đất này ngày càng đông. Trong điều kiện thuận lợi ấy, năm 1623, trên cơ sở có được sự thỏa thuận của vua Chettha II, chúa Nguyễn đã lập được sở thu thuế ở Krey Nokor (Sài Gòn), Kas Krobei (Bến Nghé) để đảm bảo quyền lợi và công việc làm ăn, sinh sống của người Việt; cử một đạo quân (quan, lính) đến đóng đồn, bảo vệ con đường giao thương giữa Đàng Trong với Chân Lạp và Xiêm.
Việc được lập một sở thu thuế và đóng đồn trên đất Đông Nam Bộ ngoài việc có ý nghĩa như là “sự thu hoạch” đối với những thành quả của người Việt đạt được, mà còn mang tính chất như là một sự xác lập chủ quyền nhất định của chúa Nguyễn ở một vùng đất “trái độn’ giữa Đàng Trong và Chân Lạp. Với đặc quyền này, cư dân người Việt đến Chân Lạp ngày một đông hơn do cảm giác yên tâm bởi đã có một sự bảo trợ của cả chính quyền Đàng Trong lẫn Chân Lạp với vai trò của bà hoàng hậu người Việt trên vùng đất mới.
Sau khi vua Chettha II mất vào năm 1628, thì vùng đất từ Prey Nokor (Sài Gòn) trở ra phía Bắc, bao gồm vùng thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay, đã có nhiều người Việt đến sinh sống. Với những đóng góp của mình, có thể khẳng định chúa Nguyễn Phước Nguyên đã có vai trò như là người đặt những viên đá đầu tiên trên con đường Nam tiến vào đất Nam Bộ, tạo tiền đề cho sự thúc đẩy quá trình này ở các đời chúa sau.
Sự ra đi của vua Chettha II vô hình tạo nên nhiều thay đổi trong mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong, cũng như tiến trình khẩn hoang ở Đồng Nai của các chúa Nguyễn. Kể từ đây, cuộc khai hoang mở đất của các chúa Nguyễn vào Nam Bộ luôn gắn với sự xung đột trong chính quyền Chân Lạp.
Hai sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng nữa đối với quá trình mở đất này là hai cuộc can thiệp quân sự vào lãnh thổ Chân Lạp của các chúa Nguyễn đáp ứng lời thỉnh cầu của Chân Lạp nhằm giải quyết các tranh chấp nội bộ (năm 1658 và 1674) khiến thanh thế và vai trò của Đàng Trong ngày càng lên cao, Chân Lạp trở thành nước thần phục và phải cống nạp hàng năm.
Tiếp nối con đường mà chúa Nguyễn Phước Nguyên đã khai mở, chúa Nguyễn Phước Tần có vai trò thúc đẩy hơn nữa công cuộc mở đất vào Nam Bộ.
Năm 1658, theo sự cầu cứu của một trong số các phe phái trong triều đình Chân Lạp, chúa Nguyễn Phước Tần đã sai phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Phước Yến, Cai đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc đem 3000 quân sang can thiệp, thiết lập lại trật tự cho Chân Lạp. Vua đang tại vị của Chân Lạp là Nặc Ông Chân (1642 – 1659) bị bắt bỏ vào cũi đem về nạp cho chúa. Chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom Reachea (1660 – 1672) và buộc Chân Lạp phải có nghĩa vụ triều cống cho Đàng Trong. Như vậy, mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phước Tần có sự thay đổi quan trọng – từ bang giao bình đẳng chuyển sang mối quan hệ thần phục. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho quá trình di dân của người Việt vào đất Đồng Nai để tiếp tục khai khẩn đất hoang. Người dân Việt chuyển cư đến vùng Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông và dần chiếm đa số.
Tình trạng rối ren trong triều đình Chân Lạp lại tiếp tục diễn ra sau khi Batom Reachea bị giết vào năm 1672. Hoàng tộc bị chia thành nhiều nhóm, phái, có phái muốn dựa vào Xiêm, có phái dựa vào chúa Nguyễn để giành ngai vàng. Nặc Nộn (Nặc Non) thỉnh cầu chúa Nguyễn trong khi Nặc Ông Đài cầu cứu quân Xiêm để chống lại với Đàng Trong. Vào năm 1674, chúa Nguyễn Phước Tần sai cơ đạo dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm đưa quân sang Chân Lạp để hỗ trợ cho Nặc Nộn với lí do: “Nặc Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu”. Thắng trận, chúa Nguyễn Phước Tần phong cho Nặc Thu (em ông Nặc Đài) làm vua chính, đóng ở thành Long Úc, Nặc Nộn làm vua thứ, đóng ở thành Sài Gòn và buộc hai tiểu vương quốc hàng năm có nghĩa vụ triều cống. Chúa Nguyễn đã dần trở thành lực lượng thiết lập lại trật tự ở Chân Lạp khi có nội biến xảy ra. Chân Lạp có nghĩa vụ triều cống hàng năm cho chúa Nguyễn và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt vào làm ăn, sinh sống.
Như vậy “quá trình xâm nhập vào vùng đất Đông Nam Bộ từ năm 1620 đến năm 1674 đã thu đạt được kết quả như ý: vùng đất từ Pray Kor trở ra cho đến biên giới Champa (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa và Biên Hòa ngày nay) đã trở thành “lãnh địa riêng của chúa Nguyễn với rất nhiều người Việt đến sinh sống và lập nghiệp.”  Có thể nói, thế lực của chúa Nguyễn ở Đồng Nai – Gia Định đã tăng lên mạnh mẽ, điều đó khuyến khích làn sóng định cư của  người Việt trên vùng đất mới.
 Qua quá trình khảo cứu, chúng tôi cho rằng điểm dừng chân đầu tiên của lưu dân Việt là Mô Xoài (Bà Rịa), địa đầu của vùng đất mới, nằm trên trục giao thông của đường bộ từ Bình Thuận vào Nam, lại nằm trên đường biển có vịnh biển Ô Trạm rất thuận lợi cho tàu thuyền cập bến. Đây là một vùng đất rộng lớn từ Long Hương, Phước Lễ đến Đất Đỏ ngày nay. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia định thành thông chí thì lưu dân Việt đã vào Mô Xoài từ đời chúa Nguyễn Hoàng (1558- 1613), chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635 ), chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648 ). Đến nửa sau thế kỷ XVII số di dân người Việt đến vùng này khá đông, trong đó có một số di dân Thiên Chúa giáo trốn chạy việc cấm đạo. Những người này đã lập ra một họ đạo ở Xích Lam gần Đất Đỏ.
Từ Mô Xoài, Bà Rịa, các thế hệ di dân tự do người Việt, với phương tiện di chuyển chủ yếu là thuyền, ghe, xuồng, theo thuỷ triều ngược, dòng sông Đồng Nai, và cả đi bộ, dọc theo sông, tiến dần vào vùng Đồng Nai. Các điểm định cư sớm nhất của họ là: Nhơn Trạch, Long Thành, An Hoà, Bến Gỗ, Bàn Lân, cù lao Phố, cù lao Tân Chánh, cù lao Ngô, cù lao Kinh, cù lao Tân Triều … Như vậy, tiến trình nhập cư của cư dân người Việt vào đất Đồng Nai – Gia Định đã diễn ra liên tục trong suốt gần một thế kỷ.
Hệ quả của quá trình này, Trên cơ sở của một lực lượng di dân, khai khẩn vùng đất phương Nam từ trước nên chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Nguyễn Hữu Cảnh – một tướng tài giỏi kinh lược phía Nam vào mùa xuân năm Mậu Dần (1698).
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng; đó là thiết lập một hệ thống tổ chức bộ máy hành chính ở vùng đất mới. Cụ thể là:“ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch.”
 Đất đai lúc Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược (kể toàn phủ Gia Định) mở rộng 1000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, trung bình một hộ 5 người thì ở toàn phủ Gia Định lúc này có đến 200.000 người. Ông chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh (Quảng Bình) đưa vào Nam cho ở đông đúc, thành lập xã, thôn, phường, ấp, chia đặt địa giới, khai khẩn ruộng đất, định lệ thuế, tô và dung, đồng thời lập sổ đinh, sổ điền. Với việc xác lập chủ quyền bằng cách thiết trí hệ thống hành chính các cấp phủ, huyện, phường, xã, thôn, ấp. Lưu dân người Việt từ chỗ là kiều dân đã cùng với các tộc người khác trở thành thần dân của chúa Nguyễn.
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng: Ông lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai ty xá – lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền, thuỷ bộ binh và thuộc binh để hộ vệ.
 Việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh có tác động lớn đến vùng đất mới. Vùng đất rộng, người thưa, dân cư gồm những người tha phương cầu thực đã chung sống trở thành cộng đồng. Về mặt pháp lý, với bộ máy hành chính cụ thể, người dân chịu sự cai quản của nhà nước, sống theo trật tự xã hội và có điều kiện phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Cảnh thực thi chính sách dân tộc độc đáo, khai thác tiềm năng kinh doanh của cộng đồng người Hoa và ổn định về xã hội cho họ yên tâm cùng với lưu dân Việt phát triển vùng đất Đồng Nai bằng cách lập đơn vị hành chánh riêng. Cụ thể là lập xã Thanh Hà ở Trấn Biên (Biên Hoà), Minh Hương (Sài Gòn) ở Phiên Trấn.
Trên cơ sở khẳng định vùng lãnh thổ, chúa Nguyễn bắt đầu thực hiện những chính sách khẩn hoang và phát triển kinh tế trên đất Nam Bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Qua cuộc kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 đã biến vùng đất Đồng Nai – Gia Định thực sự thuộc chủ quyền và đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn. Nó đẩy nhanh quá trình khai khẩn đất hoang và phát triển kinh tế ở vùng đất này. Những việc làm này đã đặt nền tảng xã hội cơ bản. Từ đây Đồng Nai – Gia Định trở thành lãnh thổ chính thức của nước Việt Nam.
            Sau khi lấy được Đồng Nai – Gia Đinh, các chúa Nguyễn không chỉ dừng lại ở đó. Năm 1756, Nặc Nguyên dâng hai phần đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội khiến dinh Long Hồ có thêm vùng đất Tân An và Gò Công. Năm 1757, Nặc Tôn (con Nặc Nguyên) dâng đất Tầm Phong Long (khoảng giữa Nam Châu Đốc và Bắc Cần Thơ) để tạ ơn chúa Nguyễn đã sắc phong Phiên vương cho mình. Đồng thời, vị vua Chân Lạp này cũng cắt đất 5 phủ Vũng Thơm (Hương Úc), Cần Vọt (Cần Bột), Châu Rùm (Trực Sâm), Sài Mạt, Linh Quỳnh cho Mạc Thiên Tứ để đền ơn giúp đỡ (5 phủ này được chúa Nguyễn cho sáp nhập vào Hà Tiên). Tiếp đó, sự di cư của lực lượng người Hoa dưới sự dẫn đầu của Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch vào năm 1679 đã bổ sung một lực lượng cư dân Đàng Trong trên vùng đất Nam Bộ, tạo điều kiện để hình thành nên các đơn vị hành chính của người Việt sau đó. Sự sáp nhập Hà Tiên vào Đàng Trong cũng diễn ra tương tự như vậy. Chúa Nguyễn đã luôn đợi đến thời điểm chín muồi, khi dân cư có sự tập trung; sự khai phá, xây dựng và phát triển các vùng đất mới ở một mức độ nhất định thì mới thiết lập nên các đơn vị, tổ chức hành chính của mình.
            Như vậy, đối với Chân Lạp, các cuộc chiến mà chúa Nguyễn thực hiện xuất phát ban đầu từ việc thỉnh cầu của các phe phái trong triều đình Chân Lạp, rồi sau đó nhằm bảo vệ lãnh thổ của mình và tiến đến cho dân khai phá những phần đất bỏ hoang còn lại mà Chân Lạp không hề có sự quản lý và khẳng định chủ quyền ở đây, mặt khác các vua Chân Lạp tự nguyện dâng đất cho các Chúa Nguyễn mà trên thực tế những vùng đất này đã được người Việt khai phá, lập ra các làng xã và cơ quan thu thuế của riêng mình.
            Với cuộc khai phá những vùng đất này, cương vực Đàng Trong đã kéo dài  phía Nam từ đèo Cù Mông (Bình Định) đến tận mũi Cà Mau, đem lại cho chúa Nguyễn một vùng lãnh thổ rộng lớn, đủ sức sánh vai với Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Cả một dải đất rộng lớn từ Quảng Bình cho đến mũi Cà Mau ngày nay đã thống nhất vào lãnh thổ Đại Việt.
            Sau khi hoàn tất công cuộc mở rộng khai phá đất đai ở Nam Bộ, Đàng Trong đã có thêm các đơn vị hành chính mới: dinh Phú Yên (1611), dinh Thái Khang (1653), dinh Bình Thuận (1697), dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn (1698), trấn Hà Tiên (1708), dinh Long Hồ (1732).
     Như vậy, Đàng Trong lúc bấy giờ có 10 dinh và 1 trấn: các dinh Bố Chính, Quảng  Bình, Lưu Đồn (nay ở tỉnh Quảng Bình), dinh Cát (ở Quảng Trị), Chính dinh còn gọi là Đô thành Phú Xuân (Thừa Thiên Huế), dinh Quảng Nam (còn gọi là Dinh Chiêm), dinh Phú Yên (1611), dinh Bình Khang (Khánh Hòa, 1653), dinh Bình Thuận (1697), dinh Trấn Biên (Biên Hòa, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, 1698), dinh Phiên Trấn (Sài Gòn, Gia Định, Long An, 1698), trấn Hà Tiên được hưởng cơ chế tự trị và dinh Long Hồ (các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 1732).
            Ngoài ra, với công cuộc khai phá đất đai, Đàng Trong cũng xuất hiện những đơn vị hành chính mới như châu Định Viễn ở dinh Long Hồ, đạo Đông Khẩu (Sa Đéc), đạo Tân Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang (An Giang), đạo Kiên Giang (nay thuộc Kiên Giang), đạo Long Xuyên, đạo Trường Đồn (Mỹ Tho).
            Qúa trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam không chỉ dừng lại ở thời chúa Nguyễn. Khi thống nhất giang sơn, lập ra nhà Nguyễn (1802), dưới thời Minh Mạng đã có những cuộc chiến tranh với nước phía Tây lúc bấy giờ là Chân Lạp. Đã có lúc Minh Mạng đã thôn tín toàn bộ lãnh thổ của nước này. Tuy nhiên, do sự phản kháng của nhân dân Chân Lạp, dưới sự giúp đỡ của chính quyền Xiêm, cộng thêm sự cai trị hà khắc của một bộ phận quan lại người Việt đã dẫn đến việc nước Đại Nam không thể sáp nhập vùng đất Chân Lạp lâu dài. Sau khi thực dân Pháp vào đô hộ nước ta đã phân chia Nam Kỳ với lãnh thổ như hiện nay. Chấm dứt việc người Việt mở rộng cũng như thôn tính bờ cõi ở phía Nam.
V. Kết luận
Trong bản thảo cuốn sách Đất nước Việt Nam qua các đời được in ở miền Bắc của học giả Đào Duy Anh có chương nói về biên giới Việt Nam qua các đời, nhưng đến sau năm 1975 khi tái bản ở miền Nam, Ông xem lại thì đã bỏ chương này đi vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. Chứng tỏ đây là một vấn đề hết sức khó khăn cần phải dày công nghiên cứu mới có thể khái quát, hệ thống hóa vấn đề này một cách đúng đắn nhất. Trong phạm vi của một bài viết, tác giả với tư cách là người đi sau được thừa hưởng các công trình nghiên cứu công phu của thế hệ đi trước lấy làm cảm kích. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và rất có ý thức trong việc cập nhật kết quả mới nhất của giới khoa học nước nhà, song cũng không thể tránh khỏi những nhược điểm và thiếu sót. Kiến thức là vô hạn, sự hiểu biết của người viết là hữu hạn, mong sẽ nhận được sự đóng góp từ độc giả.