I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cương giới lãnh thổ luôn là một vấn đề thiêng liêng của từng quốc gia, từng dân tộc. Việc phân định ranh giới giữa các quốc gia với nhau luôn mang nhiều sự tranh chấp. Nhiệm vụ của nhà sử học khi nghiên cứu vấn đề này là phải làm rõ nguồn gốc, xuất xứ của đường cương giới, phải tuyệt đối đứng trên quan điểm khách quan để giải thích về cương giới quốc gia, không bị chi phối bởi quan điểm dân tộc hẹp hòi mà có ý thức lệch lạc về vấn đề, cũng như khoa học phải gắn liền với đời sống thực tiễn, thực hiện được điều đó thì mới làm rõ và giải thích chính xác vấn đề cần phải giải quyết. Biên giới lãnh thổ của một quốc gia khi ra đời thường không đồng nhất với hiện nay, điều đó không ngoại lệ đối với Việt Nam, qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt, vào giai đoạn trung đại, khi mà vấn đề biên giới lãnh thổ chưa được xác định rõ ràng thì sự xung đột lấn chiếm hoàn toàn có thể được hiểu theo quy luật khách quan của lịch sử. Đối với mọi quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ và biên giới là rất thiêng liêng. Do biến thiên của các nhân tố lịch sử, chính trị và thiên nhiên, vấn đề biên giới luôn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm. Nước ta có đường biên giới trên đất liền với 3 quốc gia là Trung Quốc, Lào và Campuchia. Đường biên giới đó hình thành trong suốt chiều dài lịch sử từ thời Văn Lang cho tới ngày nay và trải qua không ít biến động. Giữa Việt Nam và các nước có chung đường biên giới vào quãng thời gian này thì không có đường biên giới rõ ràng mà chỉ có các vùng biên giới. Trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta đã từng chứng kiến sự ra đời và phát triển của ba vương quốc. Đó là vương quốc Văn Lang ở phía Bắc ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên, vương quốc Champa ở miền Trung ra đời vào khoảng thế kỷ II sau công nguyên và vương quốc Phù Nam ra đời ở phía Nam vào khoảng thế kỷ I sau công nguyên. Sự hưng thịnh của các vương quốc này mỗi thời kỳ một khác, ví như trong khi Âu Lạc đang chìm trong Bắc thuộc thì ở phía Nam vương quốc Phù Nam phát triển rất rực rỡ, đã áp đặt sự cai trị ở rất nhiều nơi trong đó có một phần đất Champa và Chân Lạp… Nhưng đến trước khi Âu Lạc giành được độc lập từ tay bọn đô hộ Trung Quốc thì Phù Nam đã suy yếu và diệt vong.
Nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá việc đất nước thống nhất là sự xâm lược, thôn tính lãnh thổ, mạnh được yếu thua, cách ứng xử phong kiến mang nặng tính cục bộ mà cho rằng Đại Việt là của người Kinh (tức người Việt), Champa là của người Chăm và đất Nam Bộ ngày nay thuộc quyền sở hữu của Chân Lạp (tức Campuchia sau này), cách nhìn này dễ gây ra tâm lí tỵ hiềm trong lòng dân tộc. Khi tìm hiểu về tình hình quản lý ở đồng bằng hay miền núi trước đây thì thấy rằng sự chặt chẽ hay lõng lẽo có sự khác nhau ở từng vùng miền, nhưng lãnh thổ của quốc gia chung gắn bó với hai trung tâm chính trị của đất nước ở phía Bắc là Thăng Long (Hà Nội), phía Nam là Chà Bàn (thành Đồ Bàn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Giữa Đại Việt và Champa luôn luôn có sự tranh chấp. Sự tranh chấp đó là không thể tránh khỏi bởi tư duy bành trướng của giai cấp phong kiến hai nhà nước, luôn luôn sảy ra trình trạng xung đột tùy vào sự hưng vong của hai tập đoàn phong kiến ở hai miền, trong khi nhân dân chỉ muốn hòa bình, an cư lạc nghiệp.
Trong các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Champa phần thắng thường nghiêng về Đại Việt bởi những yếu tố nội lực và ngoại lực tác động. Đại Việt có cở sở kinh tế, quân sự vững mạnh hơn, cùng với đó, là sự tiếp xúc trao đổi với Trung Hoa làm cho các khí tài về quân sự của Đại Việt được cải tiến, Bên cạnh đó, việc đối diện với một nước láng giềng to lớn, luôn âm mưu xâm lược, các triều đại phong kiến Đại Việt luôn phải có ý thức đề phòng, rèn luyện võ bị, võ nghệ. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh với Trung Quốc, ít nhiều đã để lại những nghệ thuật tác chiến trong chiến tranh. Chính vì vậy, trong cuộc đương đầu với Champa, Đại Việt lần lượt chiến thắng và hệ quả đất đai của Champa mất dần vào Đại Việt. Nói như vậy, không phải lúc nào Đại Việt cũng giành chiến thắng, khi nhà Trần suy yếu, Champa dưới sự lãnh đạo của vua Chế Bồng Nga đã xây dựng cho mình một lực lượng quân sự hùng mạnh. Nhiều lần đánh thắng Đại Việt, thậm chí đã ba lần đánh đuổi vua tôi nhà Trần tháo chạy khỏi kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, theo chúng tôi, học thuyết chiến tranh của vị vua Champa này không phải là chiếm đất đai, mà làm cho các quốc gia láng giềng suy yếu. Tuy nhiên, nhìn chung trong những cuộc đụng đầu lịch sử đó, vương quốc Champa đã thất bại, để rồi cư dân Champa trở thành một dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam hiện nay.
Cùng với sự thu hẹp dần của Champa là quá trình di dân vào Thủy Chân Lạp (Nam Bộ ngày này) mà trước đây thuộc lãnh thổ của vương quốc Phù Nam chứ không phải vùng đất của Chân Lạp. Khi người Việt vào vùng đất này thì hầu như không có người ở và đã bị hoang hóa.
Qua việc một số học giả trong và ngoài nước, đã vẽ những bản đồ để mô tả lại cương giới lãnh thổ nước ta qua các thời kỳ, với ý thức là một người yêu thích lịch sử, chúng tôi đã mạnh dạn viết bài này để có thể góp phần đóng góp cho công cuộc biên soạn trên. Bài này không phải để gây sự tranh cãi về sự xâm lược, thôn tính hay sự bành trường về phương Nam của người Việt, mà mong muốn trả lại cho lịch sử những vấn đề nó đã diễn ra. Chúng ta không nên né tránh mà phải đối diện với nó, tránh được sự kích động, âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực bên ngoài. Bởi việc phân định biên giới lãnh thổ không chỉ là vấn đề của quá khứ mà nó đang rất nóng bỏng, gây ra nhiều sự tranh cãi giữa các quốc gia láng giềng với nhau.
II. BIÊN GIỚI PHÍA NAM CỦA NGƯỜI VIỆT QUA CÁC THỜI KỲ
- Khảo cứu về biên giới của vương quốc đầu tiên của người Việt
Cương vực lãnh thổ của nước Văn Lang đã được ghi chép trong nhiều sách sử. Theo sách Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường thì “Châu Phong (735 – 812) là nước Văn Lang xưa”; theo Cựu đường Thư Địa lý Chí: “Châu Phong ở Tây Bắc An Nam, trị sở là Gia Ninh. Đời Hán (từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220), huyện Mê Linh thuộc huyện Giao Chỉ,… đất Văn Lang xưa”. Như vậy, theo hai sách trên thì nước Văn Lang ở vào huyện Mê Linh đời Hán và ở Châu Phong đời Đường, nhưng hai sách này chỉ chép tên nước Văn Lang, không đề cập gì đến cương vực đất đai của nó. Đại Việt sử lược cuốn sách cổ nhất còn sót lại có ghi chép về 15 bộ thời Văn Lang mà nhà sử học Đào Duy Anh qua khảo cứu của mình đã chỉ cụ thể như sau:
- Giao Chỉ: vị trí ở hữu ngạn sông Hồng, gồm miền Hà Nội ngày nay và miền xung quanh, sang đời Đường thì vị trí của huyện Giao Chỉ có dời về phía Tây Bắc một chút.
- Việt Thường: Tên nước xưa trong truyền thuyết, tương đương với miền Hà Tỉnh ngày nay
- Vũ Ninh: Tương đương với huyện Quế Dương và Võ Giảng tỉnh Hà Bắc ngày nay
- Quân Ninh: Khoảng miền huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa ngày nay
- Gia Ninh: Phú Thọ ngày nay
- Ninh Hải: Miền Nam Khâm Châu tỉnh Quảng Đông Trung Quốc ngày nay
- Lục Hải: Miền Quảng Ninh ngày nay
- Thang Tuyền: Thang Châu ở gần Ung Châu
- Tân Xương: gồm miền Phú Thọ, Vĩnh Phúc ngày nay
- Bình Văn: Không rõ
- Văn Lang: Làng Hi Cương huyện Sơn Vi tỉnh Phú Thọ
- Cửu Chân: Tương đương với miền Nam Thanh Hóa và Nghệ An
- Nhật Nam: Ở phía Nam dãy Hoành Sơn
- Hoài Hoan: Ở miền Nghệ An ngày nay
- Cửu Đức: Ở miền Hà Tĩnh ngày nay.
Đại Việt sử lược là cuốn sách sử ra đời giai đoạn sau này, các tên huyện đều lấy từ tên gọi thời Bắc thuộc, nên có cái tên Nhật Nam trong danh sách này, là vùng đất phía Nam dãi Hoành Sơn. Thật ra cương giới phía Nam của Văn Lang chỉ tới ngang Hoành Sơn. Rất nhiều học giả trong nước đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc khi cho rằng biên giới phía Nam của Văn Lang đến ngang đèo Hải Vân. Theo như người lập danh sách này thì đất 15 bộ ấy không thể ở ngoài phạm vi của miền Bắc nước Việt Nam cùng với một dải miền Nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Sau đó học giả Đào Duy Anh đi đến kết luận: “biên giới phía Bắc của Văn Lang – Âu Lạc lấn vào miền Nam tỉnh Quảng Tây ngày nay. Biên giới phía Nam thì đến Hoành Sơn. Biên giới phía Tây thì không được rõ rệt như thế. Có lẽ là miền thượng lưu sông Đà, sông Mã, sông Chu, sông Lam, một dải dọc biên giới Việt – Lào ngày nay”. Về sau Tiến sĩ Huỳnh Công Bá trong Lịch sử Việt Nam cổ trung đại khi khảo cứu Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tham khảo các tài liệu khác, xác định 15 bộ của nước Văn Lang là:
- Văn Lang: Vùng Lâm Thao, Bạch Hạc, Vĩnh Phúc ngày nay.
- Phúc Lộc: Vùng Sơn Tây, Bắc Ninh ngày nay.
- Tân Hưng: Vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa về sau.
- Vũ Định: Vùng Thái Nguyên, Cao Bằng ngày nay.
- Vũ Ninh: Khu vực Quế Dương, Quế Võ thuộc Bắc Ninh ngày nay.
- Lục Hải: Thuộc Lạng Sơn ngày nay.
- Ninh Hải: Vùng Quảng Yên và phía Nam Khâm Châu.
- Dương Tuyền: Thuộc Hải Dương ngày nay.
- Chu Diên: Khu vực giữa sông Hồng và sông Đáy thuộc Hà Tây.
- Giao Chỉ: Ở hữu ngạn sông Hồng, gồm Hà Nội và vùng phụ cận.
- Bình Văn: Có thể là vùng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình ngày nay.
- Cửu Chân: Thuộc Thanh Hóa ngày nay.
- Hoài Hoan: Thuộc đất Nghệ An ngày nay
- Cửu Đất: Thuộc đất Hà Tĩnh ngày nay.
- Việt Thường: Cũng thuộc đất Hà Tĩnh ngày nay.
Sự khảo cứu của hai nhà sử học tuy có khác nhau về địa danh nhưng đều cho rằng lãnh thổ quốc gia Văn Lang thuộc khu vực miền Bắc và Bắc Trung Bộ nước ta ngày nay và bao gồm cả phần đất của Quảng Tây, Quảng Đông và Vân Nam Trung Quốc ngày nay. Biên giới phía Nam của nước Văn Lang có thể xác định là tiếp giáp với Hoành Sơn trên đất Quảng Bình và nếu có xa nhất thì cũng chỉ đến sông Gianh. Còn biên giới phía tây và phía đông thì núi và biển đã trở thành những cương giới tự nhiên của nước Văn Lang.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến tính chất tương đối của ranh giới lãnh thổ ở thời bấy giờ. Vì trong những thời gian quá xa xưa, cách chúng ta 3000 năm, trong xã hội có giai cấp đầu tiên, cũng như ngay cả trong xã hội phong kiến về sau này, đường ranh giới của quốc gia không thể nào xác định một cách rạch ròi như nước ta ngày nay. Chúng ta có thể căn cứ vào những công trình nghiên cứu về sau này mà bổ sung những hiểu biết về cương giới Văn Lang, nhưng có thể nói rằng: Những điều đó cũng chỉ có thể bổ sung thêm mà vẫn không đảo lộn những hiểu biết của chúng ta hiện nay.
- Cương giới lãnh thổ của Âu Lạc thời Bắc thuộc
Đất nước rơi vào ách Bắc thuộc hơn nghìn năm, trong thời gian này có nhiều sự biến chuyển về lãnh thổ nước ta tùy thuộc vào cách chia của triều đình phong kiến phương Bắc nhưng tựu trung lại thì phần lãnh thổ của nước Âu Lạc được nằm trong hai phần đất Giao Chỉ và Cửu Chân.
Dưới thời Hán thì đất Giao Chỉ là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền Tây Bắc còn phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc Tây Nam tỉnh Ninh Bình bấy giờ là địa đầu của quận Cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp, cộng thêm một vùng đất về phía Tây Nam tỉnh Quảng Tây. Quận Cửu Chận thì tương đương với phía Bắc dãy Hoành Sơn gồm 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Về phía Nam dãi Hoành Sơn, nhà Hán lập thêm quận Nhật Nam.
Dưới thời Tam Quốc và Lưỡng Tấn thì sau khi nhà Ngô chia Giao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này vào thời kỳ độc lập tự chủ thì chúng ta không còn gồm dải đất ở miền Quảng Tây nữa. Thời kỳ này, thì Champa đã đánh chiếm toàn bộ quận Nhật Nam lấy Hoành Sơn làm ranh giới phía Bắc của mình.
Sự khảo cứu của học giả Đào Duy Anh trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời cho rằng “Theo tình hình châu huyện của An Nam đô hộ phủ của nhà Đường như trên thì chúng ta thấy phạm vi thống trị của Đô hộ phủ mà phủ thành là địa điểm Hà Nội ngày nay rộng hơn phạm vi của Giao Châu thời Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. Nếu không kể các châu ky my ở miền Tây bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể các châu thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm Ảnh là đặt khống ở miền nam Hoành Sơn”.
Năm 347, vua Champa là Phạm Văn đã đánh chiếm được toàn bộ quận Nhật Nam do nhà Hán lập ra, Champa còn nhiều lần cho quân đánh chiếm quận Cửu Chân, nhưng đều bị đánh bại. Về sau núi Đồng Trụ được coi là giới hạn phía Nam của nước ta thời Bắc thuộc với vương quốc Champa. Đến thời điểm bây giờ, việc xác định địa điểm chính xác của núi Đồng Trụ còn dựa nhiều vào truyền thuyết. Nhưng khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì đã được chính sử ghi lại rõ ràng, các cuộc khởi nghĩa này đã nổ ra ở Nhật Nam (Nghệ An xưa). Như vậy có lẽ vào thế kỷ I, sông Lam là biên giới của quận Cửu chân và quận Nhật Nam (hiện tại vẫn có nhiều cơ sở khoa học để chứng minh rằng dòng chảy phần Hạ lưu sông Lam xưa khác với bây giờ, nếu điều đó là sự thật thì việc xác định ranh giới xưa là rất phức tạp). Từ thế kỷ II, III, IV nhiều cuộc nổi dậy và xâm lấn đã nổ ra. Các cuộc nổi dậy và xâm lấn này do các lãnh chúa và thủ lĩnh địa phương người Chăm ở đồng bằng ven biển Hà Tĩnh cầm đầu. Nhưng các lãnh chúa này đã bị đánh bật về phía Nam Sông Lam (theo An Tĩnh cổ lục) (Các lãnh chúa vùng đồng bằng ven biển Hà Tĩnh vì trong số họ một số là người Champa, một số chưa thể khẳng định được là người Việt hay người Champa, kể cả Mai Thúc Loan).
Đầu thế kỷ VI, Lý Bí khởi nghĩa ở Cửu Đức (Nghệ An) lập ra nước Vạn Xuân (544 – 602). Nhưng rồi vua Champa là Can-Thực-Luật-Bạt-Ma lại vượt qua Sông Lam. Các thế kỷ VIII (780), IX (802 – 803) quân Champa lại tiếp tục chiếm đóng Châu Hoan và Châu Ái nhưng rồi lại bị quân Đường đánh bật về phía Nam Sông Lam.
Cho ta thấy rằng tuy trải quả các thời kỳ bị đô hộ khác nhau của phong kiến phương Bắc, cương giới lãnh thổ của Âu Lạc tuy có sự thay đổi ít nhiều nhưng phần đất cơ bản là ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ nước ta.
III. Biên giới phía Nam của Đại Việt thời kỳ độc lập tự chủ
3.1 Nước Đại Cồ Việt dưới các thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
Thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh lập nước Đại Cồ Việt. Lúc này ranh giới của Đại Cồ Việt và Champa gọi là Nam Giới. Các sách An Tĩnh Cổ Lục, Phong thổ ký, các huyện Hà Tĩnh đều nhắc đến cửa Nam Giới và núi Nam Giới là giới hạn phía Nam của Đại Cồ Việt thời kỳ này. Đối chiếu với địa hình thì cửa Nam Giới chính là cửa Sót ngày nay, nơi sông Hà Hoàng (bao gồm Sông Nghèn và Sông Sót ngày nay) đổ ra Biển. Như vậy vào thời điểm bấy giờ có thể cửa Sót còn nằm về phía Nam của núi Nam Giới (Thạch Hải, Hà Tĩnh ngày nay). Điều này là có cơ sở vì theo Địa chí Can Lộc thì “Sông Nghèn có thể là dòng chảy chính của Hạ Lưu sông Lam ngày xưa”.
Năm 981, Đại Cồ Việt sau nhiều lần bị Champa quấy rối, Lê Hoàn lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt Champa, chiếm được Địa Lý Châu (Quảng Ninh, Quảng Bình). Champa đã phải dời kinh đô (Indrapura) từ miền Đồng Dương vào thành Phật Thệ (Vijaya, tức Bình Định ngày nay). Sau đó Lê Hoàn trả Địa Lý Châu lại cho Champa. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Champa từ trước vẫn là một nước lớn (đối với Đại Cồ Việt) nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một “tiểu quốc” chịu thần phục Đại Cồ Việt.
Do bước đầu mới thoát khỏi ách Bắc thuộc hơn 1000 năm nên còn rất non yếu và chưa ổn định. Việc vua Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư (Ninh Bình) là vùng có địa thế hiểm trở để làm kinh đô, mạnh về mặt phòng thủ quân sự lại xa với phương Bắc, thuận lợi cho công cuộc chống ngoại xâm là minh chứng rõ ràng nhất. Tình hình chính trị liên tục biến động tạo cơ hội cho phong kiến phương Bắc thực hiện dã tâm thôn tính nước ta lần nữa. Các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê do phải chấn hưng đất nước nên chưa có điều kiện với tay tới các khu vực miền núi mà lãnh thổ trước đây thuộc Vương quốc Văn Lang – Âu Lạc. Vì vậy vùng đất quản lý chỉ bó hẹp trong phạm vi đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
3.2 Thời Lý
Đại Việt giáp gianh với vương quốc Champa. Tuy đã thần phục Đại Việt, nhưng Champa vẫn không ngừng quấy rối biên giới, mặt khác đã đề phòng Đại Việt bằng cách dời kinh đô Indrapura ở Đồng Dương vào Đồ Bàn (Vijaya) vào cuối thế kỷ X.
Đến triều Hậu Lý, Lý Thái Tổ (1010 – 1028) đã hạ được các đồn lũy và thành của vương quốc Champa ở Kỳ Hoa (Nam Cẩm Xuyên và Kỳ Anh bây giờ). Từ đây, Hoành Sơn trở thành biên giới phía Nam của Đại Việt. Sau khi mở rộng biên giới đến dãy Hoành Sơn, Cửa Nhượng và dãy Hoành Sơn trở thành pháo đài liên hoàn bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt.
Dưới thời Lý Thánh Tông, Champa được nhà Tống nâng đỡ nên không những không triều cống Đại Việt nữa mà còn tăng cường tổ chức quân đội, luyện tập quân lính, đem quân quấy phá vùng biên thuỳ. Vì thế, năm 1069, vua lại quyết định thân chinh, cử Lý Thường Kiệt làm tiên phong dẫn 5 vạn quân đi đánh Champa và tiến thẳng tới kinh đô của Champa. Vua Champa là Chế Củ đem vợ con bỏ trốn khỏi kinh thành Đồ Bàn (Bình Định) đến tận vùng Panduranga (Phan Rang, Phan Thiết ngày nay) nhưng bị Lý Thường Kiệt truy đuổi. Bị bắt đưa về Thăng Long, vua Chế Củ đã xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để được chuộc tội. Điều này có ghi trong Phủ biên tạp lục: “Lý Thánh Tông, năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1069), Kỷ Dậu, mùa xuân, vua đi đánh Chiêm Thành, bắt vua nước ấy là Chế Củ đem về. Chế Củ xin lấy ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để chuộc tội. Vua nhận, tha cho Chế Củ về nước”.
Cương giới phía Nam của Đại Việt từ thời điểm này kéo dài đến sông Thạch Hãn (Bắc Quảng Trị).
3.2 Thời Trần
Bước vào thiên niên thế kỷ thứ 14 đánh dấu một khúc quanh mới trong chính sách bang giao giữa Champa và Đại Việt.”Nhân dịp viếng thăm Champa vào năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tôn hứa gả công chúa Huyền Trân (tức là em gái của vua Trần Anh Tôn) cho vua Chế Mân, với điều kiện Champa phải nhường cho Đại Việt hai Châu Ô và Lý. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) là ngày kết hôn giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân. Tháng giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn đổi hai châu Ô và Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Sau khi Chế Mân dâng hai châu Ô và châu Lý cho nhà Trần làm sính lễ thì người Việt đã di cư vào hai vùng đất này để khai phá. Theo đánh giá chung của nhiều nhà sử học, hai châu Ô, Lý mà nhà Trần đã đổi thành Thuận – Hóa là dải đất từ Nam Quảng Trị vào đến Bắc Quảng Nam ngày nay. Vấn đề được đặt ra là địa bàn thực tế phía nam của châu Hóa thời Trần. Theo khảo cứu của học giả Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì Trà Kệ là huyện Quảng Điền về sau, Bồ Đài là huyện Phong Điền ngày nay, Bồ Lãng ở vùng thượng du sông Hương, Sa Lệnh là phía đông Huế, Thế Vang là huyện Phú Vang, Lợi Bồng tương đương với huyện Hương Thủy, và huyện Tư Dung thì Ông cho rằng đặt vào khoảng huyện Phú Lộc ngày nay. Và cũng theo Đào Duy Anh, biên giới phía Nam của châu Hóa thời thuộc Trần vào đến sông chợ Cửi, tức sông Thu Bồn của Quảng Nam – Đà Nẵng. Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong, cho rằng “huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay và huyện Hòa Vang, huyện Đại Lộc, phủ Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay là đất Hóa Châu xưa”. Vậy biên giới phía Nam của châu Hóa thời Trần là ở đâu? Và người Việt đã vượt qua đèo Hải Vân để khai triển vùng đất Bắc Quảng Nam mà Champa đã giao cho nhà Trần chưa? Những vấn đề này đã được Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá qua sự khảo cứu của mình đã làm rõ ngọn ngành những vấn đề này. Qua sự tìm hiểu của mình, bằng những tư liệu khi đi thực địa tại vùng đất này, Ông cho rằng: “Qua các tư liệu trên, cho thấy ít nhất là khoảng 10 năm sau ngày đám cưới Huyền Trân – Chế Mân, đã có người Việt đến khai khẩn vùng đất Bắc Quảng Nam. Địa bàn khai phá lúc bấy giờ diễn ra trên địa bàn trong điểm của đồng bằng sông Thu Bồn và ở phía nam sông này, thuộc đất của huyện Duy Xuyên về sau. Như vậy biên giới phía nam của châu Hóa thời Trần không dừng lại ở Bắc sông chợ Cửi (Thu Bồn). Căn cứ vào bản cổ chỉ của tộc Trà làng Phú Xuân (thuộc tổng Quảng Hóa, phủ Duy Xuyên) lập ngày 21 tháng 9 năm Thái Đức 3 (1780), vốn là một tộc họ người Chăm ở lại khai thác đất đai cùng người Việt nơi vùng “tam giác châu” Ô Da – Thu Bồn. cho biết đến đến cuối thời Trần, do chiến tranh Chiêm – Việt, ông tổ tộc này phải bỏ chỗ ở cũ là làng La Vân (tức Phú Xuân về sau), chạy vào làng Đồng Dương (ở phía Nam sông Ly Ly), là thôn nhà của ông Chế Tịnh (một người Chăm khác) ở trọ, chúng tôi cho rằng biên giới phía nam của châu Hóa lúc bấy giờ có khả năng đến sông Ly Ly (Hương An)”[3: tr 42]. Và cũng theo Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá đi đến nhận định rằng: “Trong buổi đầu quốc gia Đại Việt, Bắc Quảng Nam đã thuộc về Thuận – Hóa. Nếu Thuận Hóa là “phên dậu phía Nam” của nước Đại Việt thì huyện Điện Bàn chính là “phên dậu của phên dậu”, một thời làm “cột mốc biên giới” che đỡ cho cả Thuận – Hóa trong công cuộc tái thiết xây dựng, và một thời gian dài sau đó sẽ trở thành “hành lang quân sự” của những cuộc chiến tranh”.
Như vậy, biên giới phía Nam của Đại Việt thời Trần là sông Ly Ly ở phía Nam của huyện Điện Bàn (Quảng Nam ngày nay).
3.3 Thời Hồ
Để ổn định biên giới phía Nam do Champa trước kia thường xuyên đánh phá ở thời Trần mạt, Hồ Quy Ly muốn làm cho Champa suy yếu và thần phục nhà Hồ để tránh hậu họa về sau. Vì vậy năm 1402, nhà Hồ cho xây dựng con đường Thiên lý từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đời Hán Thương năm Thiệu Thành thứ 2 (1402), Nhâm Ngọ, tháng 3, sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, dọc đường đặt phố xá để truyền thư, gọi là đường thiên lý”.
Tháng 7 năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh đi đánh Champa và thắng trận. Phủ biên tạp lục cho biết: “Vua nước ấy là Ba- Đích lại dâng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ Động. Quý Ly nhận chia làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ lộ Thăng Hoa, biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước để lấy trâu cấp cho dân di cư”
Theo như sự khảo cứu của Học giả Đào Duy Anh, trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì lộ Thăng Hoa nằm ở phía Nam sông Chợ Cửi đến sông Bến Ván tương đương với vùng đất Nam Quảng Nam ngay này. Cũng theo Ông thì châu Thăng là miền Thăng Bình và Duy Xuyên. Châu Hoa là miền Tam Kỳ. Ba huyện Lê Giang, Đô Hòa và An Bị của châu Thăng tương đương với ba huyện Lễ Dương tức huyện Thăng Bình, Huyện Duy Xuyên và Huyện Quế Sơn ngày nay. Châu Hoa thì tương đương với phủ Tam Kỳ thời Nguyễn, tương đương với huyện Hà Đông, tức thành phố Tam Kỳ ngày nay, miền nguồn Chiên Đàn và miền nguồn Hữu Bang. Châu Tư thì thuộc trong phạm vi của hai huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh trong lưu vực sông Trà Khúc, ở miền Bắc tỉnh Quảng Ngãi, huyện Trì Bình ở dưới, huyện Bạch Ô ở trên. Châu Nghĩa trong phạm vi của lưu vực sông Vệ và huyện Mộ Đức hiện ở miền Đông Nam tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy dưới thời nhà Hồ, trong một thời gian biên giới về phía Nam của Đại Việt đã vượt qua sông Trà Khúc hơn 50km về phía Nam đến huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Nhưng sau đó trong khi Đại Việt bị quân Minh xâm lược thì Champa đã nhân cơ hội đó chiếm lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
3.4 Thời Lê sơ
Trong những đời vua đầu của thời hậu Lê, sau khi mới giành được độc lập, việc nội trị được ưu tiên hàng đầu nên trước những hành động quấy rối của Champa ở biên giới, vua Lê Nhân Tông chỉ cho quân đánh vào thành Đồ Bàn, bắt được vua Champa là Ba Đích Lại đưa về Thăng Long và lập cháu (gọi chú) của Ba Đích Lại là Maha Quý Lai lên thay chứ không lấy lại Chiêm Động Cổ Luỹ (4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa mà nhà Hồ đã sáp nhập trước đây).
Đến năm 1470, vua Champa là Bàn La Trà Toàn, một mặt cầu viện nhà Minh, mặt khác xuất 10 vạn quân ra cướp Hoá Châu. Để chấm dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi đánh Champa. Vua cho vẽ bản đồ Champa để biết rõ những nơi hiểm yếu của vương quốc này, vua Trà Toàn bị đánh bại. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông cho một số quân đóng tại kinh đô Champa chứ không rút hết về nước như trước nữa. Trong khi khi vua Lê Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa thì một viên tương của Champa là Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự lập làm Vua, xin sắc phong được nhà Lê đồng ý. Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại lấy phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam Bàn.
Như vậy Chiêm Thành ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền núi ra đến biển. Điều này cũng được Lê Quý Đôn ghi lại ở Phủ biên tạp lục: “Tháng 2 đánh thành Chà – Bàn. Quân Thuận Hoá bắt sống được Trà Toàn. Tướng nước ấy là Bố Trì chạy đến Phan Lung, giữ đất ấy xưng vương, chỉ còn lại được 2 phần 5 đất nước, sai người vào cống. Bèn phong Bố Trì làm Chiêm Thành vương, lại phong Hoa Anh vương và Nam Bàn vương, chia làm 3 nước”.
Vua Lê cho những viên quan Champa đã đầu hàng giữ những chức vụ quan trọng đối với vùng đất mới. Ba Thái được cử làm Đại Chiêm đồng tri châu, Đa Thuỷ làm Thiêm tri châu. Vua có dụ: “Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết. Ai dám không theo lệnh thì chém trước tâu sau”. Vùng đất này được đặt làm đạo Quảng Nam, chia làm ba phủ, chín huyện. Các sở đồn điền cũng được lập ra để dân nghèo từ miền Bắc vào cùng với những kiều dân cũ đã có ở đó từ trước cùng khai khẩn, sinh sống.
Trong cuốn sách Vương quốc Champa của Giáo sư Lương Ninh có dẫn của Đại Nam nhất thống chí như sau “Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Đá Bia (Thạch Bi). Núi Thạch Bi ở phía đông huyện Tuy Hòa, phía bắc đèo Cả, thuộc thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phù Yên ngày nay. Núi này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quan đầu về phía đông như hình người… Vua Lê sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Chiêm Thành”. Vậy thì phải chăng lãnh thổ Đại Việt về phía nam dưới thời Lê Thánh Tông kéo đến ngang núi Thạch Bi? Qua quá trình tìm hiểu như sau, theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “Tháng 3 ngày 1, hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người…”, “ngày mồng 2 vua thấy đã phá được thành Chà Bàn rồi, xuống chiếu đem quân về”, từ thành Chà Bàn đến núi Thạch Bi phải qua đèo Cù Mông, đi qua tỉnh Phú Yên và xuống gần hết tỉnh Phú Yên mới tới đèo Cả trong đó có núi Thạch Bi. Trong vòng một ngày quân Đại Việt không thể kéo quân đến nơi đây được. Đại Việt sử ký toàn thư như chúng ta đã biết là được ghi chép dưới thời Lê nên những sự ghi nhận trên là đáng tin cậy. Lý giải vì sao Đại Nam nhất thống chí lại cho chép vụ việc này thì Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá cho rằng:“qua quá trình mưa gió đã bào mòn, lồi ra trên đỉnh núi một tảng đá bằng hoa cương không bị bào mòn trông giống như một tấm bia, sau đó người dân trong vùng đã thiêu dệt thành truyền thuyết rằng vua Lê Thánh Tông đã cho người mài đá và khắc chữ lên phiến đá đó để đánh dấu cương giới phía Nam của đất nước mà sau này Đại Nam nhất thống chí viết thời nhà Nguyễn đã có sự lầm lẫn đáng tiếc, đã ghi chép vụ việc này mà giáo sư Lương Ninh đã dẫn”. Vả lại giáo sư Lương Ninh cũng viết: “Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh.” Điều này cho thấy phần đất phía Nam đèo Cù Mông Đại Việt không hề quản lý, thì sự ghi chép của Đại Nam nhất thống chí về địa giới phía Nam với Chiêm Thành là núi Thạch Bi là sự lầm lẫn hết sức đáng tiếc.
Như vậy, đến thời Lê sơ biên giới Đại Việt kéo đến đèo Cù Mông. Các vua đời Lê, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông không những đã lấy lại được vùng đất Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay mà còn mang về cho lãnh thổ Đại Việt thêm phần đất Bình Định. Biên giới Đại Việt về phía Nam kéo dài đến đèo Cù Mông.